Tin trong nước:
Thị trường ngoại tệ: Phiên 10/04, NHNN niêm yết tỷ giá trung tâm ở mức 23.600 VND/USD, giảm 03 đồng so với phiên cuối tuần trước. Tỷ giá bán giao ngay được niêm yết ở mức 24.730 VND/USD; tỷ giá mua giao ngay ở mức 23.450 VND/USD. Trên thị trường LNH, tỷ giá chốt phiên với mức 23.445 VND/USD, giảm 05 đồng so với phiên 07/04. Tỷ giá trên thị trường tự do giảm 40 đồng ở chiều mua vào và 20 đồng ở chiều bán ra, giao dịch tại 23.370 VND/USD và 23.450 VND/USD.
Thị trường tiền tệ LNH: Ngày 10/04, lãi suất chào bình quân LNH VND tăng 0,02 đpt ở các kỳ hạn ngắn trong khi giảm 0,03 đpt ở kỳ hạn 2W và đi ngang ở kỳ hạn 1M so với phiên cuối tuần trước, cụ thể: ON 5,08%; 1W 5,22%; 2W 5,30% và 1M 5,56%. Lãi suất chào bình quân LNH USD tăng 0,01 đpt ở hầu hết các kỳ hạn ngoại trừ không thay đổi ở kỳ hạn 1M; giao dịch tại: ON 4,64%; 1W 4,76%; 2W 4,89%, 1M 5,0%. Lợi suất TPCP trên thị trường thứ cấp giảm ở tất cả các kỳ hạn, cụ thể: 3Y 2,77%; 5Y 2,85%; 7Y 2,99%; 10Y 3,27%; 15Y 3,39%.
Nghiệp vụ thị trường mở: Hôm qua, trên kênh cầm cố, NHNN chào thầu 15.000 tỷ đồng kỳ hạn 7 ngày và 15.000 tỷ đồng kỳ hạn 28 ngày, đều với lãi suất 5,0%. Có 7.106,85 tỷ đồng trúng thầu ở kỳ hạn 7 ngày, 2.239,11 tỷ đồng ở kỳ hạn 28 ngày; không có khối lượng đáo hạn. NHNN không chào thầu tín phiếu NHNN, không có khối lượng đáo hạn. Như vậy, NHNN bơm ròng 9.345,96 tỷ đồng ra thị trường; khối lượng lưu hành trên kênh cầm cố tăng lên mức 14.946,87 tỷ đồng, khối lượng tín phiếu lưu hành giữ ở mức 110.699,8 tỷ đồng.
Thị trường chứng khoán: Hôm qua, thị trường chứng khoán tiếp tục chịu áp lực chốt lời khiến chỉ số chính tiếp tục giảm. Kết thúc phiên giao dịch, VN-Index mất 4,36 điểm (-0,41%) còn 1.065,35 điểm; HNX-Index tăng nhẹ 0,40 điểm (+0,19%) lên mức 212,0 điểm; UPCoM-Index giảm 0,17 điểm (-0,22%) xuống 77,99 điểm. Thanh khoản thị trường ở mức cao với giá trị giao dịch gần 17.500 tỷ VND. Khối ngoại bán ròng hơn 290 tỷ đồng trên cả 3 sàn.
Theo số liệu Tổng cục Hải quan vừa công bố, tháng 3/2023, cán cân thương mại cả nước thặng dư 1,39 tỷ USD, quý 1/2023 thặng dư 4,81 tỷ. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu cả nước tháng 3 đạt 29,71 tỷ USD, nhập khẩu đạt 28,32 tỷ. Lũy kế 3 tháng đầu năm, kim ngạch xuất khẩu đạt 79,3 tỷ USD, giảm 11,8% so với cùng kỳ năm 2022; nhập khẩu đạt 74,49 tỷ, giảm 15,4%. Kim ngạch XNK quý 1 đạt 153,79 tỷ USD, giảm 13% so với quý 1/2022.
Tin quốc tế:
Trong báo cáo Triển vọng KT Đông Nam Á, Trung Quốc, Ấn Độ 2023, OECD dự báo kinh tế khu vực này tăng 4,6% trong năm nay, thấp hơn so với mức tăng 5,6% của năm 2022. Nguyên nhân chính của sự giảm tốc trên là do kinh tế toàn cầu ảm đạm dưới áp lực lạm phát và lãi suất cao. Trung Quốc, nền kinh tế lớn nhất Châu Á được dự báo tăng trưởng 5,3% (+2,7 đpt so 2022) do đã mở cửa trở lại, tuy nhiên có thể bị kìm hãm bởi sự gia tăng của Covid-19. Tuy nhiên, Ấn độ được đánh giá sẽ giảm tốc, chỉ tăng 5,9% (-1,0 đpt). Trong khu vực ĐNA, Việt Nam được dự báo tăng trưởng 6,6% (-1,4 đpt), Philippines 5,7% (-0,9 đpt), Indonesia 4,7% (-0,6 đpt), Malaysia 4,0% (-4,7 đpt) và Thái Lan 3,8% (+1,2 đpt).
Thu nhập bình quân của người dân Nhật Bản tăng 1,1% y/y trong tháng 2, cao hơn mức tăng 0,8% của tháng trước đó, gần khớp với mức tăng 1,2% theo dự báo. Tiếp theo, mức chi tiêu của các hộ gia đình Nhật Bản tăng 1,6% y/y trong tháng 2 sau khi ghi nhận mức giảm 0,3% ở tháng 1, tuy nhiên vẫn thấp hơn nhiều so với mức tăng 4,9% theo kỳ vọng. Các chuyên gia nhận định tỷ lệ tăng trưởng thu nhập của Nhật Bản quá thấp so với mức lạm phát 3,3% ghi nhận ở tháng 2, tạo áp lực lớn cho người tiêu dùng nước này.