Tin trong nước:
Thị trường ngoại tệ: Phiên 04/04, NHNN niêm yết tỷ giá trung tâm ở mức 23.602 VND/USD, tăng nhẹ 02 đồng so với phiên trước đó. Tỷ giá bán giao ngay được giữ nguyên niêm yết ở mức 24.780 VND/USD; tỷ giá mua giao ngay ở mức 23.450 VND/USD. Trên thị trường LNH, tỷ giá chốt phiên với mức 23.468 VND/USD, giảm 12 đồng so với phiên 03/04. Tỷ giá trên thị trường tự do giảm 40 đồng ở chiều mua vào trong khi tăng 10 đồng ở chiều bán ra, giao dịch tại 23.380 VND/USD và 23.480 VND/USD.
Thị trường tiền tệ LNH: Ngày 04/04, lãi suất chào bình quân LNH VND tăng mạnh 0,20 – 0,56 đpt ở tất cả các kỳ hạn từ 1M trở xuống so với phiên đầu tuần, cụ thể: ON 2,48%; 1W 2,82%; 2W 3,30% và 1M 4,73%. Lãi suất chào bình quân LNH USD giảm 0,01 đpt ở các kỳ hạn ON và 2W trong khi đi ngang ở kỳ hạn 1W và tăng 0,01 đpt ở kỳ hạn 1M; giao dịch tại: ON 4,62%; 1W 4,73%; 2W 4,87%, 1M 4,99%. Lợi suất TPCP trên thị trường thứ cấp giảm mạnh ở các kỳ hạn 7Y và 10Y trong khi tăng ở các kỳ hạn còn lại, cụ thể: 3Y 2,83; 5Y 2,87%; 7Y 2,97%; 10Y 3,34%; 15Y 3,52%.
Nghiệp vụ thị trường mở: Hôm qua, NHNN chào thầu 5.000 tỷ đồng trên kênh cầm cố kỳ hạn 35 ngày, lãi suất 5,0%. Không có khối lượng trúng thầu, không có khối lượng đáo hạn. NHNN không chào thầu tín phiếu NHNN, không có khối lượng đáo hạn. Như vậy, khối lượng lưu hành trên kênh cầm cố giữ ở mức 1.201,98 tỷ đồng, khối lượng tín phiếu lưu hành ở mức 110.699,8 tỷ đồng.
Thị trường chứng khoán: Hôm qua, chỉ số giao dịch giằng co quanh mốc tham chiếu, VN-Index giảm nhẹ vào cuối phiên. Kết thúc phiên giao dịch, VN-Index giảm 0,83 điểm (-0,08%) còn 1.078,45 điểm; HNX-Index nhích 0,25 điểm (+0,12%) lên 210,73 điểm; UPCoM-Index tăng 0,31 điểm (+0,40%) đạt 77,59 điểm. Thanh khoản thị trường giảm nhẹ so với phiên trước đó với giá trị giao dịch trên 15.300 tỷ VND. Khối ngoại bán ròng hơn 273 tỷ đồng trên cả 3 sàn.
Sáng 03/04, S&P Global công bố báo cáo Chỉ số Nhà quản trị mua hàng PMI ngành sản xuất Việt Nam tháng 3/2023. Sau khi tăng lên 51,2 điểm trong tháng 2, sang tháng 3, PMI ngành sản xuất Việt Nam đã giảm xuống còn 47,7 điểm. Tăng trưởng ngành sản xuất đã dừng lại trong tháng 3, sau khi đã phục hồi mạnh mẽ trong tháng trước. Sản lượng, số lượng đơn đặt hàng mới và việc làm đều giảm khi có các báo cáo về tình trạng nhu cầu giảm.
Trong báo cáo Triển vọng Phát triển Châu Á (ADO) tháng 4/2023 công bố ngày 04/04, Ngân hàng Phát triển Châu Á ADB nhận định, kinh tế Việt Nam phục hồi ấn tượng trong năm 2022 nhờ xuất khẩu, đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng mạnh và tiêu dùng trong nước khôi phục. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế thế giới, chính sách tiền tệ thắt chặt ở các nước phát triển, cũng như tác động lan tỏa từ căng thẳng địa chính trị toàn cầu, tăng trưởng kinh tế Việt Nam sẽ giảm nhẹ xuống 6,5% trong năm 2023, sau đó tăng lên mức 6,8% vào năm 2024.
Tin quốc tế:
Bộ Lao động Mỹ cho biết số cơ hội việc làm tại nước này ở mức 9,93 triệu trong tháng 2, thấp hơn khá nhiều so với mức 10,56 triệu của tháng trước đó, đồng thời thấp hơn mức 10,49 triệu theo dự báo. Đây cũng là mức cơ hội việc làm thấp nhất kể từ tháng 06/2021. Tiếp theo, giá trị đơn đặt hàng nhà máy tại Mỹ giảm 0,7% m/m trong tháng 2, nối tiếp đà giảm 2,1% của tháng trước đó, sâu hơn dự báo chỉ giảm 0,4%. So với cùng kỳ 2022, lượng đơn đặt hàng vẫn tăng khoảng 2,7%, song là mức tăng y/y nhỏ nhất kể từ tháng 02/2021.
Trong cuộc họp ngày hôm qua, NHTW Úc RBA nhận định nhiều thước đo cho thấy lạm phát đã đạt đỉnh tại Úc. Giá hàng hóa được kỳ vọng sẽ giảm trong những tháng tới do kinh tế thế giới yếu đi và nhu cầu tại Úc cũng đang hạ nhiệt dần. Theo kịch bản trung tâm của RBA, lạm phát sẽ giảm dần trong năm nay và các năm tới, về mức khoảng 3% vào giữa năm 2025. Ưu tiên của RBA là đưa lạm phát trở lại mục tiêu 2% - 3% đồng thời vẫn giữ cho nền kinh tế phát triển bình thường, tuy nhiên khả năng đạt được hạ cánh mềm vẫn rất hẹp. Tại cuộc họp lần này, RBA quyết định duy trì LSCS ở mức 3,6%, không thay đổi so với trước. Đây là lần đầu tiên RBA dừng tăng LSCS sau 10 lần tăng liên tiếp trước đó.