Tổng quan:
GDP quý 1/2023 chỉ tăng 3,32% so với cùng kỳ năm trước. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục hạ một số mức lãi suất điều hành từ 03/04/2023.
Theo Tổng cục Thống kê, trong bối cảnh khó khăn chung của kinh tế thế giới, tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước GDP quý I/2023 của Việt Nam tăng 3,32% so với cùng kỳ năm trước, chỉ cao hơn mức tăng 3,21% của quý I/2020 trong giai đoạn 2011-2023. Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,52%, đóng góp 8,85% vào mức tăng trưởng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng giảm 0,4%, làm giảm 4,76%; khu vực dịch vụ tăng 6,79%, đóng góp 95,91%. Đáng chú ý, tại khu vực công nghiệp và xây dựng, sản xuất một số ngành công nghiệp chủ lực suy giảm do chi phí sản xuất đầu vào tăng cao, số lượng đơn đặt hàng giảm mạnh. Giá trị các ngành công nghiệp quý I/2023 giảm 0,82% so với cùng kỳ năm trước, là mức giảm sâu nhất của cùng kỳ các năm trong giai đoạn 2011-2023, làm giảm 0,28 đpt trong mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế. Nguyên nhân do ngành CNCBCT giảm 0,37%, làm giảm 0,1 đpt; ngành khai khoáng giảm 5,6% (sản lượng khai thác than giảm 0,5% và dầu mỏ thô khai thác giảm 6%), làm giảm 0,2 đpt; ngành SX và phân phối điện giảm 0,32%, làm giảm 0,01 đpt. Riêng ngành XD tăng 1,95%, chỉ cao hơn tốc độ tăng 0,28% và 1,41% của cùng kỳ năm 2011 và 2012 trong giai đoạn 2011-2023, đóng góp 0,12 đpt. Khu vực dịch vụ trong quý I/2023 thể hiện rõ sự phục hồi nhờ hiệu quả của các chính sách kích cầu tiêu dùng nội địa, chính sách mở cửa nền kinh tế trở lại từ ngày 15/3/2022 khi dịch Covid-19 được kiểm soát, các hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch Việt Nam tới các nước trên thế giới được đẩy mạnh. Đóng góp của một số ngành dịch vụ vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của quý I/2023 là khá đáng kể: Dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 25,98% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0,64 đpt; ngành bán buôn và bán lẻ tăng 8,09%, đóng góp 0,85 đpt; hoạt động TC-NH và BH tăng 7,65%, đóng góp 0,45 đpt; ngành vận tải, kho bãi tăng 6,85%, đóng góp 0,43 đpt; ngành thông tin và truyền thông tăng 1,5%, đóng góp 0,1 đpt. Có thể thấy, quý I năm nay, kinh tế Việt Nam tiếp tục đối mặt với những khó khăn như: chi phí thức ăn chăn nuôi tăng cao khiến người nuôi có nguy cơ thua lỗ; SX một số ngành CN chủ lực suy giảm do chi phí SX đầu vào tăng cao, số lượng đơn đặt hàng sụt giảm; hoạt động SXKD của DN gặp nhiều khó khăn… Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, để tăng trưởng kinh tế cả năm đạt 6,5% như mục tiêu của Chính phủ, trong 9 tháng còn lại của năm 2023, kinh tế cả nước cần phải tăng khoảng 7,5%. Đây là mức tăng khá cao, trong bối cảnh các khó khăn, thách thức của nền kinh tế vẫn còn tồn tại; những biến động từ kinh tế thế giới còn tiếp tục ảnh hưởng đến Việt Nam… Tuy nhiên, xu hướng tăng trưởng kinh tế Việt Nam thường tăng thấp trong quý I, gia tăng dần ở quý II sau đó bứt phá ở nửa cuối năm. Năm 2023, kinh tế Việt Nam được kỳ vọng vẫn có thể đi theo xu hướng này. Trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới hiện nay, kinh tế Việt Nam quý II sẽ tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn, chưa thể tăng trưởng bứt phá nhưng sẽ cải thiện hơn so với quý I.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục hạ một số mức lãi suất điều hành từ 03/04/2023. Ngày 31/03/2023, NHNN ban hành các quyết định điều chỉnh giảm một số mức lãi suất điều hành, có hiệu lực từ ngày 03/4/2023, cụ thể như sau: (1) Quyết định số 574/QĐ-NHNN ngày 31/3/2023 về LS tái cấp vốn, LS tái chiết khấu, LS cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử LNH và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của NHNN đối với TCTD. Theo đó, LS tái cấp vốn giảm từ mức 6%/năm xuống 5,5%/năm; LS tái chiết khấu giữ nguyên ở mức 3,5%/năm; LS cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử LNH và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của NHNN đối với TCTD giữ nguyên ở mức 6,0%/năm; (2) Quyết định số 575/QĐ-NHNN ngày 31/3/2023 về mức LS tối đa đối với tiền gửi bằng VND của tổ chức, cá nhân tại TCTD theo quy định tại Thông tư số 07/2014/TT-NHNN ngày 17/3/2014. Theo đó, LS tối đa áp dụng đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng giảm từ mức 1,0%/năm xuống 0,5%/năm; LS tối đa áp dụng đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng giảm từ 6,0%/năm xuống 5,5%/năm, riêng LS tối đa đối với tiền gửi bằng VND tại QTDND, TCTCVM giảm từ 6,5%/năm xuống 6,0%/năm; LS tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng trở lên do TCTD ấn định trên cơ sở cung - cầu vốn thị trường; (3) Quyết định số 576/QĐ-NHNN ngày 31/3/2023 về mức LS cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND của TCTD đối với KH vay để đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ một số lĩnh vực, ngành kinh tế theo quy định tại Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016. Theo đó, LS cho vay theo tiêu chí này giảm từ 5,0%/năm xuống 4,5%/năm; LS cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND của QTDND và TCTCVM đối với các nhu cầu vốn này giảm từ 6,0%/năm xuống 5,5%/năm; (4) Quyết định số 577/QĐ-NHNN ngày 31/3/2023 về mức LS tiền gửi của KBNN, BHTG tại NHNN quy định, LS đối với tiền gửi bằng VND của KBNN, BHTGVN giảm từ 0,8%/năm xuống 0,5%/năm; LS đối với tiền gửi bằng ngoại tệ của KBNN giữ ở mức 0%/năm; (5) Quyết định số 578/QĐ-NHNN ngày 31/3/2023 về mức LS tiền gửi của NHPTVN, NHCSXH, QTDND, TCTCVM tại NHNN. Theo đó, LS đối với tiền gửi bằng VND của NHPTVN, NHCSXH, QTDND, TCTCVM giảm từ 0,8%/năm xuống 0,5%/năm.
Đây là lần thứ hai NHNN điều chỉnh các lãi suất điều hành trong tháng 3/2023, nhằm thực hiện chủ trương của Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về giảm lãi suất cho vay nhằm tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế, doanh nghiệp và người dân.
Tóm lược thị trường trong nước từ 27/03 - 31/03
Thị trường ngoại tệ: Trong tuần từ 27/03 - 31/03, tỷ giá trung tâm được NHNN điều chỉnh tăng giảm nhẹ luân phiên. Chốt ngày 31/03, tỷ giá trung tâm được niêm yết ở mức 23.600 VND/USD, đi ngang so với cuối tuần trước đó. NHNN tiếp tục niêm yết tỷ giá mua giao ngay ở mức 23.450 VND/USD; tỷ giá bán giao ngay ở mức 24.780 VND/USD.
Tỷ giá LNH tiếp tục giảm dần trong tuần qua. Chốt phiên giao dịch cuối tuần 31/03, tỷ giá LNH đóng cửa tại 23.459 VND/USD, giảm tiếp 66 đồng so với phiên cuối tuần trước đó.
Tỷ giá trên thị trường tự do biến động tăng – giảm đan xen trong tuần qua. Chốt phiên 31/03, tỷ giá tự do giảm 50 đồng ở chiều mua vào trong khi tăng 80 đồng ở chiều bán ra so với tuần trước đó, giao dịch tại 23.420 VND/USD và 23.470 VND/USD.
Thị trường tiền tệ LNH: Tuần từ 27/03 - 31/03, lãi suất VND LNH giảm nhẹ trong những phiên đầu tuần nhưng tăng khá mạnh trở lại ở phiên Thứ Sáu. Chốt ngày 31/03, lãi suất VND LNH giao dịch quanh mức: ON 1,50% (+0,30 đpt so với phiên cuối tuần trước đó); 1W 2,20% (+0,30 đpt); 2W 2,73% (-0,17 đpt); 1M 4,50% (+0,07 đpt).
Lãi suất USD LNH tăng nhẹ. Phiên cuối tuần 31/03, lãi suất USD LNH đóng cửa ở mức: ON 4,62% (+0,02 đpt); 1W 4,73% (+0,01 đpt); 2W 4,90% (+0,04 đpt) và 1M 5,0% (không thay đổi).
Thị trường mở: Trên thị trường mở tuần từ 27/03 - 31/03, NHNN chào thầu 25.000 tỷ đồng trên kênh cầm cố, kỳ hạn 28 ngày với lãi suất 5,5% song không có khối lượng trúng thầu, bên cạnh đó cũng không có khối lượng đáo hạn. NHNN không chào thầu tín phiếu và cũng không có tín phiếu đáo hạn trong tuần qua.
Khối lượng lưu hành trên kênh cầm cố hiện tại ở mức 1.201,98 tỷ VND, tín phiếu NHNN ở mức 110.699,8 tỷ VND.
Thị trường trái phiếu: Ngày 29/03, KBNN huy động 13.500 tỷ đồng TPCP, khối lượng trúng thầu là 10.916 tỷ đồng (đạt 81%). Trong đó, kỳ hạn 5Y huy động được 1.500 tỷ, 10Y là 2.845 tỷ, 15Y là 4.721 tỷ, 20Y là 1.000 tỷ và 30Y là 850 tỷ. Lãi suất trúng thầu các kỳ hạn trên lần lượt tại 5Y 2,93% (-0,37 đpt so với lần trúng thầu trước); 10Y 3,45% (-0,15 đpt), 15Y 3,60% (-0,24 đpt), 20Y 3,75% (-1,0 đpt) và 30Y 3,80% (-0,40 đpt). Tuần vừa qua từ 27/03 – 31/03 không có TPCP đáo hạn. Về kế hoạch đấu thầu, trong tuần 03/04 – 07/04, KBNN dự kiến gọi thầu 8.000 tỷ đồng TPCP, trong đó kỳ hạn 5Y gọi 3.000 tỷ đồng, kỳ hạn 10Y gọi 2.000 tỷ đồng, kỳ hạn 15Y gọi 2.000 tỷ và kỳ hạn 30Y gọi 1.000 tỷ đồng.
Giá trị giao dịch Outright và Repos trên thị trường thứ cấp tuần qua đạt trung bình 5.205 tỷ đồng/phiên, giảm mạnh so với mức 8.285 tỷ đồng/phiên của tuần trước đó. Trong tuần qua, lợi suất TPCP giảm khá mạnh ở tất cả các kỳ hạn. Chốt phiên 31/03, lợi suất TPCP giao dịch quanh 1 năm 2,92% (-0,46 đpt); 2 năm 2,92% (-0,46 đpt); 3 năm 2,92% (-0,47 đpt); 5 năm 2,95% (-0,46đpt); 7 năm 2,8% (-0,63 đpt); 10 năm 3,24% (-0,24 đpt); 15 năm 3,42% (-0,25 đpt); 30 năm 3,92% (-0,44 đpt).
Thị trường chứng khoán: Tuần từ 27/03 - 31/03, thị trường chứng khoán tăng điểm. Chốt ngày 31/03, VN-Index đứng ở mức 1.064,64 điểm, tăng 17,85 điểm (+1,71%) so với cuối tuần trước đó; HNX-Index tăng 1,78 điểm (+0,87%) lên mức 207,50 điểm; UPCom-Index tăng 0,59 điểm (+0,77%) còn 76,76 điểm.
Thanh khoản thị trường cũng cải thiện với giá trị giao dịch trung bình đạt khoảng 11.300 tỷ đồng/phiên so với mức 9.500 tỷ đồng/phiên của tuần trước đó. Khối ngoại bán ròng gần 970 tỷ đồng trên cả 3 sàn trong tuần qua.
Tin quốc tế
Mỹ ghi nhận nhiều chỉ báo kinh tế quan trọng. Đầu tiên, GDP của nước này chính thức tăng 2,6% q/q trong quý 04/2022, điều chỉnh xuống so với mức 2,7% theo kết quả thống kê sơ bộ lần 2. Về áp lực lạm phát, chỉ số PCE lõi tại Mỹ tăng 0,3% m/m trong tháng 2, nối tiếp đà tăng 0,5% của tháng 1, thấp hơn mức tăng 0,4% theo dự báo của các chuyên gia. So với cùng kỳ năm 2022, PCE lõi tháng 2 tăng 4,6%, hạ nhiệt nhẹ so với mức tăng 4,7% ghi nhận ở tháng 1. Tiếp theo, niềm tin tiêu dùng tại Mỹ do Conference Board khảo sát ở mức 104,2 điểm trong tháng 3, tăng lên từ 103,4 điểm của tháng 2 và trái với dự báo giảm xuống còn 101,0 điểm. Tại thị trường lao động, số đơn xin trợ cấp thất nghiệp lần đầu tại Mỹ tuần kết thúc ngày 25/03 ở mức 198 nghìn đơn, tăng lên từ 191 nghìn đơn của tuần trước đó và cao hơn một chút so với mức 196 nghìn đơn theo dự báo. Cuối cùng, doanh số nhà chờ bán tại quốc gia này tiếp tục tăng 0,8% m/m trong tháng 2 sau khi tăng vọt 8,1% ở tháng 1, trái với dự báo giảm 2,9%.
Thống đốc NHTW Anh củng cố niềm tin về hệ thống ngân hàng. Cụ thể, trong buổi phát biểu trước Ủy ban Ngân khố Hạ viện Anh, Thống đốc NHTW Andrew Bailey không cho rằng trạng thái hiện tại giống như 2007 – 2008, hệ thống ngân hàng Anh đang rất vững mạnh cả về vốn và thanh khoản. Song ông cũng cảnh báo các biến cố về ngân hàng trên thế giới có thể dẫn đến tình trạng thắt chặt cho vay diện rộng, và BOE sẽ luôn cảnh giác với các sự kiện có thể xảy ra. Theo một báo cáo của BOE, lượng cấp tín dụng cá nhân trong tháng 2 chỉ đạt khoảng 2,2 tỷ GBP, thấp hơn nhiều so với mức 3,7 tỷ của tháng trước đó, và nối tiếp xu hướng giảm kể từ mức 8,3 tỷ GBP hồi tháng 04/2022. Liên quan tới kinh tế Anh, GDP của nước này chính thức tăng 0,1% q/q trong quý 4/2022, điều chỉnh tích cực hơn so với kết quả 0,0% q/q của báo cáo sơ bộ. Tiếp theo, giá nhà tại nước Anh giảm mạnh 0,8% m/m trong tháng 3, nối tiếp đà giảm 0,5% của tháng 2, sâu hơn mức giảm 0,3% theo dự báo và đồng thời đánh dấu tháng suy giảm thứ 6 liên tiếp. So với cùng kỳ 2022, giá nhà tại nước Anh tháng 3 giảm 3,1% y/y.
Khu vực Eurozone đón các thông tin kinh tế đáng chú ý. Đầu tiên, tại thị trường lao động, tỷ lệ thất nghiệp của Eurozone ở mức 6,6% trong tháng 2, không thay đổi so với kết quả của tháng trước đó. Tiếp theo, về lạm phát, CPI toàn phần tại Eurozone tăng 6,9% y/y trong tháng 3, thấp hơn mức 8,5% của tháng 2 và thấp hơn mức 7,1% theo dự báo. Tuy nhiên CPI lõi tháng 3 tăng 5,7%, cao hơn mức tăng 5,6% của tháng trước đó và khớp với dự báo của các chuyên gia. Nguyên nhân chủ yếu do giá các mặt hàng cơ bản tại một số quốc gia lớn như Đức, Ý và Pháp vẫn tăng khá mạnh trong tháng vừa qua. Tại nước Đức nói riêng, CPI lõi của quốc gia này tăng mạnh 0,8% m/m trong tháng 3, bằng với đà tăng của tháng 2 và cao hơn so với dự báo ở mức 0,7%. Chỉ số niềm tin kinh doanh tại Đức do Ifo khảo sát cũng tăng lên mức 93,3 điểm trong tháng vừa qua từ mức 91,1 điểm của tháng 2, là mức niềm tin kinh doanh cao nhất mà nước này đạt được kể từ tháng 03/2022.