Tổng quan:
Kinh tế xã hội 2 tháng đầu năm 2025 đạt một số kết quả tích cực, tuy nhiên vẫn còn nhiều thách thức để đạt được mục tiêu tăng trưởng quý I cũng như cả năm.
Tại phiên họp thường kỳ Chính phủ tháng 2/2025 ngày 05/03, Chính phủ thống nhất đánh giá: Tình hình kinh tế - xã hội tháng 2 và 2 tháng đầu năm đạt một số kết quả tích cực, tốt hơn tháng trước và cùng kỳ năm trước với những kết quả nổi bật sau:
Thứ nhất, kinh tế vĩ mô ổn định, tăng trưởng được thúc đẩy, lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn được bảo đảm. Chỉ số giá tiêu dùng CPI bình quân 2 tháng tăng 3,27% so với cùng kỳ (năm 2024 tăng 3,67%); lạm phát cơ bản tăng 2,97% so với cùng kỳ năm trước (năm 2024 tăng 2,84%). Trên thị trường tiền tệ, tỷ giá cơ bản ổn định, lãi suất cho vay bình quân giảm 0,72%/năm so với cuối năm 2024; đến 18/2, dư nợ tín dụng toàn hệ thống tăng 0,02% so với tháng 12/2024 (cùng kỳ giảm 1,01% so với tháng 12/2023). Thu NSNN đạt 25,4% dự toán, tăng 25,7% so với cùng kỳ. Kim ngạch xuất nhập khẩu 2 tháng tăng 12%, xuất siêu ước đạt 1,54 tỷ USD (2 tháng năm 2024 tăng 18,6% so với cùng kỳ 2023, xuất siêu 4,72 tỷ USD).
Thứ hai, các ngành, lĩnh vực chủ yếu tiếp tục phát triển tốt với xu hướng khả quan. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tháng 2 tăng 16,7% so với cùng kỳ, tính chung 2 tháng tăng 7% (cùng kỳ 2024 tăng 6,5%); trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 9,3%; sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản ổn định; Thương mại, dịch vụ khá sôi động; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 2 và 2 tháng đều tăng 9,4% (năm 2024 tăng 8,1%); khách du lịch quốc tế đạt gần 4 triệu lượt, tăng 30,2% so với cùng kỳ (2 tháng đầu năm 2024 đạt hơn 3 triệu lượt người).
Thứ ba, đầu tư phát triển đạt kết quả tích cực: Vốn FDI đăng ký đạt 6,9 tỷ USD, tăng 35,5% (năm 2024 là 4,29 tỷ USD, tăng 38,6%); vốn FDI thực hiện gần 3 tỷ USD, tăng 5,4% (năm 2024 là 2,8 tỷ USD, tăng 9,8%). Giải ngân vốn đầu tư công đạt 60,4 nghìn tỷ đồng, tương đương cùng kỳ năm 2024 và đạt 7,32% kế hoạch giao.
Thứ tư, phát triển doanh nghiệp tiếp tục xu hướng tích cực. Tổng vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế trong 02 tháng đầu năm đạt trên 709 nghìn tỷ đồng, tăng 66,1%; trong đó vốn đăng ký tăng thêm của các doanh nghiệp đang hoạt động tăng 131%, …
Tuy nhiên, tình hình kinh tế - xã hội 2 tháng đầu năm vẫn còn một số mặt hạn chế như sau:
Thứ nhất, tốc độ tăng tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa 2 tháng đầu năm 2025 chỉ cao hơn cùng kỳ năm 2023 trong 5 năm qua. Cụ thể, tổng kim ngạch XNK 2 tháng đầu năm các năm 2021-2025 so với cùng kỳ năm trước tăng/giảm lần lượt như sau: 22,1%; 15,2%; -13,3%; 18,2%; 12,0%.
Thứ hai, số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường cao hơn số DN gia nhập thị trường. Trong 2 tháng đầu năm nay, số DN rút lui khỏi thị trường là 67,0 nghìn DN, cao hơn số DN gia nhập thị trường (49,8 nghìn DN). Trong đó, số DN hoàn tất thủ tục giải thể là 3,8 nghìn, tăng 10,3% so với cùng kỳ năm trước và là mức cao nhất của cùng kỳ các năm trong giai đoạn 2021-2025. Bên cạnh đó, tình trạng thiếu hụt lao động những tháng đầu năm 2025 vẫn xuất hiện trong một bộ phận DN đăng ký thành lập mới. Trong 2 tháng đầu năm 2025, tổng số lao động đăng ký của DN thành lập mới là gần 140,7 nghìn người, giảm 22,7% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2024 có 154,3 nghìn người, tăng 29,0%), …
Theo Cục Thống kê, để đạt mục tiêu tăng trưởng năm 2025 từ 8% trở lên, tốc độ tăng trưởng từng quý được dự tính như sau: quý I tăng 7,7% q/q; quý II tăng 8,1%; quý III tăng 8%; quý IV tăng 8,2%. Đây là một thách thức lớn đối với toàn nền kinh tế, đặc biệt các ngành kinh tế trọng điểm. Đơn cử, để đạt được mục tiêu tăng trưởng 7,7% trong quý I, tốc độ tăng IIP của ngành công nghiệp chế biến chế tạo phải tăng ít nhất trên 10% q/q, một tỷ lệ khá cao trong bối cảnh hiện tại. Đối với ngành khai khoáng, mục tiêu tăng trưởng của ngành này quý I/2025 (theo kịch bản 8%) là giảm 1,2%, trong khi 2 tháng đầu năm 2025 giảm tới 9,4%, khiến khả năng đạt mục tiêu đặt ra của quý I là khó khăn. Bên cạnh đó, xét về góc độ sử dụng, cầu tiêu dùng của nền kinh tế 2 tháng đầu năm ở mức thấp hơn cùng kỳ các năm trước cũng là một thách thức lớn để có thể đạt mục tiêu tăng trưởng của quý I năm nay.
Tóm lược thị trường trong nước từ 03/03 - 07/03/2025
Thị trường ngoại tệ: Trong tuần từ 03/03 - 07/03, tỷ giá trung tâm được NHNN điều chỉnh tăng mạnh phiên đầu tuần rồi giảm dần trở lại. Chốt ngày 07/03, tỷ giá trung tâm được niêm yết ở mức 24.730 VND/USD, tăng nhẹ 04 đồng so với phiên cuối tuần trước đó. NHNN niêm yết tỷ giá mua giao ngay ở mức 23.544 VND/USD, cao hơn 50 đồng so với tỷ giá sàn; tỷ giá bán giao ngay được niêm yết ở mức 25.916 VND/USD, thấp hơn tỷ giá trần 50 đồng.
Tỷ giá LNH trong tuần từ 03/03 - 07/03 có xu hướng giảm. Kết thúc phiên 07/03, tỷ giá LNH đóng cửa tại 25.508, giảm 53 đồng so với phiên cuối tuần trước đó.
Tỷ giá trên thị trường tự do tuần qua vẫn ít biến động. Chốt phiên 07/03, tỷ giá tự do tăng 40 đồng ở cả hai chiều mua vào và bán ra so với phiên cuối tuần trước đó, giao dịch tại 25.710 VND/USD và 25.810 VND/USD
Thị trường tiền tệ LNH: Tuần từ 03/03 - 07/03, lãi suất VND LNH các kỳ hạn từ 1M trở xuống giảm mạnh. Chốt ngày 07/03, lãi suất VND LNH giao dịch ở mức: ON 3,99% (-0,81 đpt); 1W 4,09% (-0,79 đpt); 2W 4,27% (-0,61 đpt); 1M 4,43% (-0,50 đpt).
Lãi suất USD LNH biến động nhẹ ở tất cả các kỳ hạn trong tuần qua. Phiên 07/03, lãi suất USD LNH giao dịch tại: ON 4,31% (không thay đổi); 1W 4,37% (-0,01 đpt); 2W 4,42% (-0,01 đpt) và 1M 4,48% (không thay đổi).
Thị trường mở: Trên thị trường mở tuần qua từ 03/03 - 07/03, ở kênh cầm cố, NHNN chào thầu 150.000 tỷ đồng với 5 kỳ hạn 7 ngày, 14 ngày, 28 ngày, 35 ngày và 91 ngày, lãi suất đều ở mức 4,0%. Có 41.100,84 tỷ đồng trúng thầu và có 45.958,73 tỷ đồng đáo hạn trong tuần qua trên kênh cầm cố.
NHNN chào thầu tín phiếu NHNN kỳ hạn 7 ngày, đấu thầu lãi suất ở 2 phiên đầu tuần. Có 1.999,8 tỷ đồng trúng thầu. Lãi suất trúng thầu giảm dần từ mức 3,2% xuống mức 3,1%. Có 5.999,3 tỷ đồng tín phiếu đáo hạn trong tuần qua.
Như vậy, NHNN hút ròng 858,39 tỷ đồng khỏi thị trường trong tuần qua bằng kênh thị trường mở. Có 63.812,85 tỷ đồng lưu hành trên kênh cầm cố, có 1.999,8 tỷ đồng tín phiếu NHNN lưu hành trên thị trường.
Thị trường trái phiếu: Ngày 05/03, KBNN đấu thầu thành công 18.000 tỷ đồng/19.500 tỷ đồng TPCP gọi thầu (tỷ lệ trúng thầu đạt 92%). Trong đó, kỳ hạn 10Y huy động được toàn bộ 18.000 tỷ đồng gọi thầu, lãi suất trúng thầu là 2,97%, không đổi so với phiên đấu thầu trước đó. Kỳ hạn 15Y và 30Y gọi thầu lần lượt 1.000 tỷ đồng và 500 tỷ đồng nhưng không có khối lượng trúng thầu ở cả hai kỳ hạn.
Ngày 12/03, KBNN dự kiến chào thầu 15.000 tỷ đồng TPCP, trong đó kỳ hạn 10Y chào thầu 13.000 tỷ đồng, kỳ hạn 15Y chào thầu 1.000 tỷ đồng, kỳ hạn 20Y và 30Y chào thầu 500 tỷ đồng mỗi kỳ hạn.
Giá trị giao dịch Outright và Repos trên thị trường thứ cấp tuần qua đạt trung bình 15.598 tỷ đồng/phiên, tăng nhẹ so với mức 14.070 tỷ đồng/phiên của tuần trước đó. Lợi suất TPCP trong tuần qua giảm ở tất cả các kỳ hạn. Chốt phiên 07/03, lợi suất TPCP giao dịch quanh 1Y 2,08% (-0,005 đpt); 2Y 2,10% (-0,01 đpt); 3Y 2,16% (-0,01 đpt); 5Y 2,32% (-0,10 đpt); 7Y 2,67% (-0,16 đpt); 10Y 2,95% (-0,13 đpt); 15Y 3,14% (-0,12 đpt); 30Y 3,41% (-0,04 đpt).
Thị trường chứng khoán: Tuần từ 03/03 - 07/03, thị trường chứng khoán tương đối tích cực, VN-Index tiếp tục tăng điểm. Kết thúc phiên 07/03, VN-Index đứng ở mức 1.326,05 điểm, tăng mạnh 20,69 điểm (+1,59%) so với cuối tuần trước đó; HNX-Index giảm nhẹ 0,78 điểm (-0,33%) về mức 238,41 điểm; UPCom-Index giảm 0,50 điểm (-0,50%) còn 99,08 điểm.
Thanh khoản thị trường trung bình đạt khoảng trên 23.100 tỷ đồng/phiên, tăng so với mức 20.400 tỷ đồng/phiên của tuần trước đó. Khối ngoại tiếp tục bán ròng mạnh hơn 1.890 tỷ đồng trên cả 3 sàn.
Tin quốc tế
Mỹ đón các chỉ báo kinh tế quan trọng. Đầu tiên, Viện Quản lý Cung ứng Mỹ ISM công bố chỉ số PMI lĩnh vực dịch vụ tại nước này ở mức 53,5% trong tháng 2, tăng lên từ 52,8% của tháng trước đó và trái với dự báo giảm nhẹ xuống 52,5%. Tuy nhiên, PMI lĩnh vực sản xuất tại nước này chỉ đạt 50,3% trong tháng 2, giảm xuống từ 50,9% của tháng trước đó và đồng thời thấp hơn mức 50,6% theo dự báo. Tại thị trường lao động, thu nhập bình quân tại Mỹ tăng 0,3% m/m trong tháng 2, nối tiếp đà tăng 0,4% ở tháng 1 và khớp với dự báo. Bên cạnh đó, nước Mỹ tạo ra 151 nghìn việc làm phi nông nghiệp mới trong tháng 2, cao hơn mức 125 nghìn của tháng 1 và chỉ thấp hơn một chút so với kỳ vọng ở 159 nghìn. Tỷ lệ thất nghiệp tại nước này tăng nhẹ lên mức 4,1% trong tháng vừa qua, trái với dự báo không đổi ở mức 4% của tháng 1. Cuối cùng, số đơn xin trợ cấp thất nghiệp lần đầu tại Mỹ tuần kết thúc ngày 01/03 ở mức 221 nghìn đơn, giảm xuống từ 242 nghìn của tuần trước đó, đồng thời thấp hơn mức 234 nghìn theo dự báo. Số đơn trung bình 4 tuần gần nhất là 224,24 nghìn, tăng nhẹ 250 đơn so với 4 tuần liền trước. Trong tuần này, thị trường chờ đợi chỉ báo lạm phát CPI tại Mỹ, được công bố vào 19:30 ngày 12/03 theo giờ Việt Nam. CPI toàn phần và CPI lõi cùng được dự báo tăng 0,3% m/m trong tháng 2, sau khi lần lượt tăng khá mạnh 0,4% và 0,5% m/m ở tháng đầu năm.
NHTW Châu Âu ECB tiếp tục hạ LSCS trong tháng 3. Trong cuộc họp ngày 06/03, ECB nhận định quá trình giảm lạm phát đang đi đúng hướng. Cơ quan này dự báo lạm phát trong năm nay sẽ xuống còn 2,3% y/y, 2026 là 1,9% và 2027 là 2,0%. Bên cạnh đó, lạm phát lõi 2025 là 2,2% y/y, 2026 là 2,0% và 2027 là 1,9%. Hầu hết các thước đo đều cho thấy lạm phát sẽ ổn định ở ngưỡng mục tiêu trung hạn 2,0% mà ECB theo đuổi. Đối với kinh tế, ECB dự báo GDP khu vực Eurozone sẽ tăng khoảng 0,9% trong năm nay, 1,2% năm 2026 và 1,3% năm 2027. Tình hình kinh tế được cho rằng sẽ khó khăn, do lực cản từ các đợt tăng LS trước đây vẫn đang khiến lượng cấp tín dụng ở mức thấp. Ngoài ra, tính bất định từ các chính sách thương mại và nhiều chính sách khác cũng tác động tiêu cực đến tâm lý thị trường. Tại cuộc họp này, ECB quyết định cắt giảm bộ 3 LSCS thêm 0,25 đpt. Theo đó, LS cho vay tái cấp vốn, LS cho vay cận biên, và LS tiền gửi tại ECB lần lượt xuống còn 2,65%; 2,90% và 2,50%. Liên quan đến thông tin kinh tế Eurozone tuần qua, GDP khu vực này chính thức tăng 0,2% q/q trong quý cuối 2024, điều chỉnh lên so với mức tăng 0,1% theo báo cáo sơ bộ. Tiếp theo, về lạm phát, CPI lõi và CPI toàn phần tại khu vực này lần lượt tăng 2,6% và 2,4% y/y trong tháng 2, cùng thấp hơn mức 2,7% và 2,5% của tháng 1, tuy nhiên chưa xuống thấp như dự báo ở 2,5% và 2,3%. Tại thị trường lao động, tỷ lệ thất nghiệp tại Eurozone ở mức 6,2% trong tháng 1, không thay đổi so với tháng 12/2024, trái với dự báo tăng nhẹ lên mức 6,3%.
Tổng hợp Kinh tế - Tài chính tuần 03/03 - 07/03/2025