Tổng quan:
Kinh tế - xã hội cả năm 2024 phục hồi tích cực, đạt nhiều kết quả quan trọng.
Tại buổi họp Chính phủ thường kỳ tháng 12/2024 được tổ chức ngày 08/01/2025, Chính phủ nhận định, KTXH năm 2024 phục hồi tích cực, tháng sau tốt hơn tháng trước, quý sau cao hơn quý trước, tính chung cả năm đạt nhiều kết quả quan trọng, cao hơn năm 2023 trên hầu hết các lĩnh vực, không chỉ đạt mà cơ bản vượt toàn bộ 15/15 chỉ tiêu chủ yếu. Cụ thể:
(1) GDP năm 2024 ước tính tăng 7,09%, thuộc nhóm ít các nước tăng trưởng cao trên thế giới. Mức này chỉ thấp hơn tốc độ tăng các năm 2018, 2019 và 2022 trong 15 năm qua. Mức này cũng cao hơn so với dự báo của nhiều tổ chức quốc tế đưa ra trước đó. Cả ba khu vực nông, lâm, thủy sản, công nghiệp, dịch vụ đều duy trì đà tăng trưởng tích cực; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2024 tăng 9,0% so với năm trước.
(2) KTVM cơ bản ổn định, các cân đối lớn được đảm bảo, lạm phát được kiểm soát. Bình quân 2024, lạm phát cơ bản tăng 2,71%, thấp hơn mức tăng CPI bình quân chung, trong bối cảnh thực hiện tăng lương từ ngày 01/07 và điều chỉnh giá một số dịch vụ.
(3) Xuất nhập khẩu là điểm sáng của năm 2024. Tính chung cả năm, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 786,29 tỷ USD, tuy chưa đạt con số kỳ vọng 800 tỷ USD nhưng đã tăng 15,4% so với năm trước; cả năm, xuất siêu 24,77 tỷ USD.
(4) Du lịch phục hồi mạnh. Khách quốc tế năm 2024 đạt gần 17,6 triệu lượt người, tăng 39,5% so với năm 2023 và bằng 97,6% năm 2019 - năm chưa xảy ra dịch Covid-19.
(5) Cân đối thu chi NSNN được bảo đảm. Tổng thu NSNN năm 2024 ước đạt trên 2,03 triệu tỷ đồng, tăng 19,8% so với dự toán, tăng 16,2% so với thực hiện năm 2023. Nợ công, nợ Chính phủ, bội chi thấp hơn nhiều so với chỉ tiêu được Quốc hội cho phép.
(6) Hoạt động sản xuất kinh doanh, thu hút vốn FDI đạt nhiều kết quả tích cực. Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội năm 2024 ước đạt trên 3,69 triệu tỷ đồng, tăng 7,5% so với năm 2023. Mặc dù tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam tính đến ngày 31/12/2024 chỉ đạt 38,23 tỷ USD, giảm 3,0% so với cùng kỳ năm trước nhưng vốn thực hiện của các dự án FDI ước đạt 25,35 tỷ USD, tăng 9,4% so với năm 2023, đạt mức cao nhất từ năm 2020 đến nay.
(7) Tình hình phát triển doanh nghiệp chuyển biến tích cực. Trong năm 2024, có hơn 233 nghìn doanh nghiệp gia nhập và tái gia nhập thị trường, gấp 1,2 lần số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường. Số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong năm 2024 đạt mức cao nhất từ trước đến nay với trên 76 nghìn doanh nghiệp. Tuy nhiên, số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới cả năm 2024 giảm 1,4% so với năm 2023 với tổng vốn đăng ký giảm 1,8%.
(8) Phát triển kết cấu hạ tầng được thúc đẩy mạnh mẽ, có bước đột phá rõ nét, nhất là hạ tầng giao thông, điện lực. Đưa vào khai thác thêm 109 km đường bộ cao tốc, nâng tổng chiều dài đường cao tốc cả nước lên hơn 2.021 km. Nhiều dự án, công trình nguồn điện, lưới điện trọng điểm được thực hiện nghiêm túc, thần tốc, như Dự án 500 kV mạch 3 Quảng Trạch - Phố Nối hoàn thành sau hơn 6 tháng.
(9) Triển khai quyết liệt công tác hoàn thiện thể chế, pháp luật. Chính phủ trình Quốc hội thông qua 31 Luật, 42 nghị quyết; chủ trì, phối hợp với Ủy ban thường vụ Quốc hội tổ chức Hội nghị quán triệt, triển khai thi hành một số luật, nghị quyết theo hình thức trực tuyến đến 63 địa phương, đổi mới cách làm trong việc đưa các luật, nghị quyết vào cuộc sống….
Chính phủ nhận định, các kết quả tích cực đạt được trong năm 2024 là tiền đề quan trọng để bước sang năm 2025, nền kinh tế được kỳ vọng sẽ bứt phá để hoàn thành các chỉ tiêu trong Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2021-2025.
Tóm lược thị trường trong nước từ 06/01 - 10/01/2025
Thị trường ngoại tệ: Trong tuần từ 06/01 - 10/01, tỷ giá trung tâm tiếp tục được NHNN điều chỉnh tăng – giảm đan xen. Chốt ngày 10/01, tỷ giá trung tâm được niêm yết ở mức 24.341 VND/USD, tăng 07 đồng so với phiên cuối tuần trước đó. NHNN tiếp tục niêm yết tỷ giá mua giao ngay ở mức 23.400 VND/USD và tỷ giá bán giao ngay ở mức 25.450 VND/USD.
Tỷ giá LNH trong tuần từ 06/01 - 10/01 vẫn biến động tăng – giảm đan xen tuy xu hướng giảm chiếm ưu thế. Kết thúc phiên 10/01, tỷ giá LNH đóng cửa tại 25.350, giảm tiếp 55 đồng so với phiên cuối tuần trước đó.
Tỷ giá trên thị trường tự do giảm nhẹ trong tuần qua. Chốt phiên 10/01, tỷ giá tự do giảm 45 đồng ở cả hai chiều mua vào và bán ra so với phiên cuối tuần trước đó, giao dịch tại 25.655 VND/USD và 25.755 VND/USD.
Thị trường tiền tệ LNH: Tuần từ 06/01 - 10/01, lãi suất VND LNH tăng khá mạnh ở các kỳ hạn ngắn. Chốt ngày 10/01, lãi suất VND LNH giao dịch ở mức: ON 4,76% (+0,76 đpt); 1W 4,91% (+0,56 đpt); 2W 4,97% (+0,49 đpt); 1M 5,14% (-0,01 đpt).
Lãi suất USD LNH giảm nhẹ ở tất cả các kỳ hạn từ 1M trở xuống trong tuần qua. Phiên 10/01, lãi suất USD LNH, giao dịch tại: ON 4,40% (-0,03 đpt); 1W 4,48% (-0,02 đpt); 2W 4,55% (-0,04 đpt) và 1M 4,60% (-0,01 đpt).
Thị trường mở: Trên thị trường mở tuần qua từ 06/01 - 10/01, ở kênh cầm cố, NHNN chào thầu kỳ hạn 7 ngày với khối lượng là 55.000 tỷ đồng, lãi suất giữ ở mức 4,0%. Có 54.999,88 tỷ đồng trúng thầu và có 73.986,12 tỷ đồng đáo hạn trong tuần qua trên kênh cầm cố.
NHNN chào thầu tín phiếu NHNN đấu thầu lãi suất ở 02 kỳ hạn 7 ngày và 14 ngày. Có 68.750 tỷ đồng trúng thầu ở cả hai kỳ hạn, lãi suất đều ở mức 4,0%. Có 35.140 tỷ đồng tín phiếu đáo hạn trong tuần qua.
Như vậy, NHNN hút ròng 52.596,24 tỷ đồng từ thị trường trong tuần qua bằng kênh thị trường mở. Có 54.999,88 tỷ đồng lưu hành trên kênh cầm cố, có 87.530 tỷ đồng tín phiếu NHNN lưu hành trên thị trường.
Thị trường trái phiếu: Ngày 08/01, KBNN đấu thầu thành công 323 tỷ đồng/6.500 tỷ đồng TPCP gọi thầu (tỷ lệ trúng thầu đạt 5%). Trong đó, kỳ hạn 10Y huy động được 176 tỷ đồng/3.500 tỷ đồng gọi thầu, kỳ hạn 15Y huy động được 140 tỷ đồng/1.000 tỷ đồng gọi thầu và kỳ hạn 30Y huy động được 7 tỷ đồng/500 tỷ đồng gọi thầu. Kỳ hạn 5Ygọi thầu 1.500 tỷ đồng nhưng không có khối lượng trúng thầu. Lãi suất phát hành kỳ hạn 10Y là 2,77% (không đổi so với phiên đấu thầu trước), 15Y là 2,95% (+0,09 đpt), 30Y là 3,22% (không đổi).
Trong tuần này, ngày 15/01, KBNN dự kiến chào thầu 6.000 tỷ đồng TPCP, trong đó kỳ hạn 5Y chào thầu 1.000 tỷ đồng, kỳ hạn 10Y chào thầu 3.500 tỷ đồng, kỳ hạn 15Y chào thầu 1.000 tỷ đồng, kỳ hạn 30Y chào thầu 500 tỷ đồng.
Giá trị giao dịch Outright và Repos trên thị trường thứ cấp tuần qua đạt trung bình 7.785 tỷ đồng/phiên, giảm mạnh so với mức 15.186 tỷ đồng/phiên của tuần trước đó. Lợi suất TPCP trong tuần qua vẫn trong xu hướng tăng nhẹ ở tất cả các kỳ hạn. Chốt phiên 08/01, lợi suất TPCP giao dịch quanh 1Y 1,98% (+0,002 đpt so với phiên cuối tuần trước); 2Y 2,01% (+0,01 đpt); 3Y 2,05% (+0,02 đpt); 5Y 2,36% (+0,06 đpt); 7Y 2,64% (+0,10 đpt); 10Y 3,03% (+0,05 đpt); 15Y 3,18% (+0,03 đpt); 30Y 3,29% (+0,01 đpt).
Thị trường chứng khoán: Tuần từ 06/01 - 10/01, thị trường chứng khoán tiếp tục tiêu cực, đặc biệt giảm mạnh 2 phiên cuối tuần. Kết thúc phiên 10/01, VN-Index đứng ở mức 1.230,59 điểm, giảm mạnh 24,11 điểm (-1,92%) so với cuối tuần trước đó; HNX-Index mất 6,14 điểm (-2,73%) về mức 219,49 điểm; UPCom-Index lùi 2,19 điểm (-2,32%) còn 92,15 điểm.
Thanh khoản thị trường trung bình đạt khoảng gần 11.900 tỷ đồng/phiên, vẫn giảm từ mức 12.500 tỷ đồng/phiên của tuần trước đó. Khối ngoại tiếp tục bán ròng trên 327 tỷ đồng trên cả 3 sàn.
Tin quốc tế
Fed công bố biên bản cuộc họp cuối năm 2024, đồng thời nước Mỹ đón nhiều chỉ báo cho thấy thị trường lao động đang khá tích cực. Về Fed, trong biên bản công bố ngày 09/01 theo giờ Việt Nam, cơ quan này nhận định kinh tế Mỹ đang tăng trưởng với tốc độ vừa phải và ổn định. Lạm phát đã giảm đáng kể so với đỉnh từ năm 2022 nhưng vẫn ở mức cao. Thị trường lao động đã có sự nới lỏng, tuy nhiên không có dấu hiệu xấu đi nhanh chóng và tỷ lệ thất nghiệp vẫn còn ở mức thấp. Ủy ban Thị trường Mở Liên bang (FOMC) kiên định với mục tiêu toàn dụng nhân công và đạt được lạm phát ổn định ở mức 2% trong dài hạn. Theo đó, cơ quan này quyết định hạ LSCS 25 đcb, từ mức 4,50% - 4,75% về còn 4,25% - 4,50% nhằm hỗ trợ mục tiêu trên. FOMC sẽ tiếp tục đánh giá kỹ lưỡng những dữ liệu sắp tới để đưa ra các quyết định tiếp theo. Liên quan đến kinh tế Mỹ, tại thị trường lao động, quốc gia này tạo ra 256 nghìn việc làm phi nông nghiệp mới trong tháng 12, cao hơn mức 212 nghìn của tháng 11 và vượt mạnh so với dự báo ở mức 164 nghìn. Tỷ lệ thất nghiệp trong tháng vừa qua cũng giảm xuống còn 4,1% thay vì đi ngang ở mức 4,2% theo dự báo. Thu nhập bình quân theo giờ tại Mỹ trong tháng cuối 2024 tăng 0,3% m/m, nối tiếp mức tăng của tháng trước đó, khớp với dự báo của các chuyên gia. Trước đó, Bộ Lao động Mỹ cũng công bố nước này tạo ra 8,10 triệu cơ hội việc làm mới trong tháng 11, cao hơn mức 7,84 triệu của tháng trước đó và cao hơn mức 7,73 triệu theo dự báo. Số đơn xin trợ cấp thất nghiệp lần đầu tại Mỹ tuần kết thúc ngày 03/01 ở mức 201 nghìn đơn, giảm từ mức 211 nghìn đơn của tuần trước đó và trái với dự báo tăng nhẹ lên 214 nghìn. Số đơn trung bình 4 tuần gần nhất ở mức 213 nghìn đơn, giảm khá mạnh 10,25 nghìn so với trung bình 4 tuần liên trước. Cuối cùng, về lĩnh vực dịch vụ, Viện Quản lý Cung ứng Mỹ ISM cho biết chỉ số PMI lĩnh vực này ở mức 54,1% trong tháng 12, tăng lên từ 52,1% của tháng 11 và đồng thời vượt qua mức 53,5% theo dự báo.
Khu vực Eurozone ghi nhận một số thông tin quan trọng. Đầu tiên, về lạm phát, chỉ số giá tiêu dùng CPI lõi tại khu vực Eurozone tăng 2,7% y/y trong tháng 12, không thay đổi so với kết quả thống kê tháng 11 và khớp với dự báo. Tuy nhiên CPI toàn phần tăng 2,4% trong tháng vừa qua, cao hơn mức tăng 2,2% của tháng 11 và cũng khớp với dự báo. Tại nước Đức nói riêng, CPI toàn phần tại nước này tăng 0,4% m/m trong tháng 12 sau khi giảm 0,2% ở tháng trước đó, vượt qua mức tăng 0,3% theo dự báo. So với cùng kỳ năm 2023, CPI toàn phần Đức tăng 2,6% y/y. Tiếp theo, doanh số bán lẻ tại khu vực Eurozone tăng nhẹ 0,1% m/m trong tháng 11 sau khi giảm 0,3% ở tháng trước đó, trái với kỳ vọng tăng 0,3%. So với cùng kỳ, doanh số bán lẻ tăng khoảng 1,2% y/y. Tại nước Đức, doanh số bán lẻ tháng 11 giảm khá mạnh 0,6% m/m, nối tiếp đà giảm 0,3% của tháng 10 và trái với kỳ vọng tăng 0,5%. So cùng kỳ, doanh số bán lẻ tại quốc gia này tăng 1,3% y/y. Cuối cùng, về thị trường lao động, tỷ lệ thất nghiệp tại khu vực Eurozone ở mức 6,3% trong tháng 12, không thay đổi so với thống kê tháng 11 và đồng thời khớp với dự báo.
Tổng hợp Kinh tế - Tài chính tuần 06/01 - 10/01/2025