Tổng quan:
Kim ngạch xuât nhập khẩu tháng 9 cả nước vẫn đạt mức cao, kỳ vọng năm 2024 hoạt động xuất nhập khẩu lập kỷ lục mới.
Theo Tổng cục Hải quan, trong 9 tháng qua, tổng trị giá xuất nhập khẩu của cả nước ước đạt 578,49 tỷ USD, tăng 16,3% (tương ứng tăng 81,09 tỷ USD) so với cùng kỳ năm trước. Cân thương mại hàng hóa thặng dư 20,81 tỷ USD.
Riêng tháng 9/2024, tổng trị giá XNK hàng hóa ước đạt 65,84 tỷ USD, giảm 8% (tương ứng giảm 5,72 tỷ USD) so với tháng trước. Trong đó, trị giá XK đạt 34,08 tỷ USD, giảm 9,9% (tương ứng giảm 3,77 tỷ USD) so với tháng trước và trị giá NK đạt 31,76 tỷ USD, giảm 5,9% (tương ứng giảm 1,98 tỷ USD) so với tháng trước. Cán cân thương mại tháng 9 thặng dư 2,32 tỷ USD. Chia theo khu vực, khu vực kinh tế trong nước XK đạt 9,39 tỷ USD, giảm 14,4%; khu vực có vốn ĐTNN (kể cả dầu thô) XK đạt 24,66 tỷ USD, giảm 8,1%; khu vực kinh tế trong nước NK đạt 10,94 tỷ USD, giảm 10%; khu vực có vốn ĐTNN NK đạt 20,82 tỷ USD, giảm 3,6%.
Lũy kế 9 tháng đầu năm, kim ngạch XK đạt 299,65 tỷ USD, tăng 15,4% (tương ứng tăng 39,91 tỷ USD) so với cùng kỳ năm trước và NK đạt 278,84 tỷ USD, tăng 17,3% (tương ứng tăng 41,18 tỷ USD) so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước XK đạt 84,93 tỷ USD, tăng 20,7%, chiếm 27,9% tổng kim ngạch XK; khu vực có vốn ĐTNN (kể cả dầu thô) XK đạt 214,72 tỷ USD, tăng 13,4%, chiếm 72,1%. Ở chiều ngược lại, khu vực kinh tế trong nước NK đạt 100,91 tỷ USD, chiếm 36,1% tổng kim ngạch NK; khu vực có vốn ĐTNN NK đạt 177,93 tỷ USD, chiếm 63,8%. Về thị trường XNK hàng hóa 9 tháng năm 2024, Hoa Kỳ là thị trường XK lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 88,16 tỷ USD; Trung Quốc là thị trường NK lớn nhất từ Việt Nam với kim ngạch ước đạt 104,81 tỷ USD.
Trong 9 tháng năm 2024, có 30 mặt hàng đạt kim ngạch XK trên 1 tỷ USD, chiếm 92,3% tổng kim ngạch XK (có 7 mặt hàng XK trên 10 tỷ USD, chiếm 66,4%); có 40 mặt hàng NK đạt giá trị trên 1 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 91,5% tổng kim ngạch NK (có 3 mặt hàng NK trên 10 tỷ USD, chiếm 45%). Trong cơ cấu hàng hoá XK hiện nay, nhóm nông sản và khoáng sản chỉ chiếm 12%; nhóm công nghiệp chiếm trên trên 88%. Như vậy, XK tăng cao chủ yếu do XK nhóm hàng công nghiệp tăng, trong đó có công nghệ cao. Điều này cho thấy hoạt động XNK đang dần theo đúng những mục tiêu mà các chiến lược, kế hoạch XNK Chính phủ đề ra.
Tổng cục Thống kê cho biết, theo quan sát quy luật nhiều năm, hoạt động XNK thường diễn ra sôi động, tăng mạnh trong những tháng cuối năm. Tỷ trọng kim ngạch XNK quý IV thường cao hơn các quý khác. Trên cơ sở kết quả XNK và các yếu tố thuận lợi, khó khăn của thị trường toàn cầu, Tổng cục Thống kê nhận định, kỳ vọng tổng kim ngạch XNK 800 tỷ năm 2024 là khả thi, từ đó tạo đà cho XNK của năm 2025. Tuy vậy, để đạt được điều đó, cần tiếp tục theo dõi sát diễn biến và chính sách XNK của các thị trường; nắm bắt xu hướng phát triển xanh, bền vững trong các ngành công nghiệp, các quy định mới về thẩm định chuỗi cung ứng của Liên minh châu Âu (EU) đối với các ngành hàng XK để kịp thời thông tin tới các hiệp hội, doanh nghiệp ... Các doanh nghiệp trong nước cần nâng cao chất lượng hàng hóa XK, đặc biệt chú trọng việc truy xuất nguồn gốc sản phẩm, giảm giá thành sản phẩm hàng hóa XK, nâng cao tính cạnh tranh về giá và chất lượng sản phẩm trên thị trường thế giới, đặc biệt đối với các mặt hàng XK chủ lực của Việt Nam.
Về các yếu tố khách quan từ bên ngoài, trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định hiện nay, có cả những yếu tố tích cực và tiêu cực có thể tác động đến hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam. Về mặt tích cực và lạc quan, xu hướng lạm phát hạ nhiệt, lãi suất giảm ở các nền kinh tế đối tác thương mại lớn của Việt Nam báo hiệu sức cầu sẽ cải thiện nên có thể tác động tích cực hơn nữa đến xuất nhập khẩu (đặc biệt là XK). Song ở chiều ngược lại, những bất định mới cũng phát sinh hoặc có tín hiệu phát sinh theo chiều hướng khó khăn hơn, nhất là nguy cơ bùng phát chiến tranh ở khu vực Trung Đông và giá năng lượng trở lại xu hướng tăng mạnh hiện nay … Điều này cho thấy hoạt động xuất nhập khẩu năm 2024 dù chỉ còn chặng đường ngắn nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, gập ghềnh.
Tóm lược thị trường trong nước từ 04/10 - 11/10
Thị trường ngoại tệ: Trong tuần từ 07/10 - 11/10, tỷ giá trung tâm được NHNN điều chỉnh tăng ở hầu hết các phiên. Chốt ngày 11/10, tỷ giá trung tâm được niêm yết ở mức 24.175 VND/USD, tăng 42 đồng so với phiên cuối tuần trước đó. NHNN tiếp tục niêm yết tỷ giá mua giao ngay ở mức 23.400 VND/USD ở tất cả các phiên trong khi niêm yết tỷ giá bán giao ngay chốt ngày 11/10 ở mức 25.333 VND/USD, thấp hơn 50 đồng so với trần tỷ giá.
Tỷ giá LNH trong tuần từ 07/10 - 11/10 tăng mạnh phiên đầu tuần rồi giảm dần các phiên sau đó. Kết thúc phiên 11/10, tỷ giá LNH đóng cửa tại 24.818, tăng 48 đồng so với phiên cuối tuần trước đó.
Tỷ giá trên thị trường tự do biến động theo xu hướng tăng. Chốt phiên 11/10, tỷ giá tự do tăng 130 đồng ở cả hai chiều mua vào và bán ra so với phiên cuối tuần trước đó, giao dịch tại 25.240 VND/USD và 25.340 VND/USD.
Thị trường tiền tệ LNH: Tuần từ 07/10 - 11/10, lãi suất VND LNH tiếp tục giảm mạnh ở tất cả các kỳ hạn từ 1M trở xuống. Chốt ngày 11/10, lãi suất VND LNH giao dịch quanh mức: ON 3,22% (-0,50 đpt); 1W 3,45% (-0,45 đpt); 2W 3,62% (-0,40 đpt); 1M 3,90% (-0,27 đpt).
Lãi suất USD LNH trong tuần vẫn ít biến động ở tất cả các kỳ hạn. Phiên 11/10, lãi suất USD LNH đóng cửa ở mức: ON 4,83% (không đối); 1W 4,89% (không đổi); 2W 4,92% (-0,01 đpt) và 1M 4,94% (không đối).
Thị trường mở: Trên thị trường mở tuần qua từ 07/10 - 11/10, ở kênh cầm cố, NHNN chào thầu kỳ hạn 7 ngày với khối lượng là 15.000 tỷ đồng, lãi suất giữ nguyên ở mức 4,0%. Không có khối lượng trúng thầu, có 10.791,47 tỷ đồng đáo hạn trong tuần qua.
NHNN không chào thầu tín phiếu NHNN và cũng không có khối lượng đáo hạn trên kênh này.
Như vậy, NHNN hút ròng 10.791,47 tỷ đồng từ thị trường trong tuần qua bằng kênh thị trường mở. Không còn khối lượng lưu hành trên kênh cầm cố cũng như không còn tín phiếu lưu hành trên thị trường.
Thị trường trái phiếu: Ngày 09/10, KBNN đấu thầu thành công 8.179 tỷ đồng/14.000 tỷ đồng TPCP gọi thầu, tỷ lệ trúng thầu đạt 58%. Trong đó, kỳ hạn 10Y huy động được 7.619 tỷ đồng/10.500 tỷ đồng gọi thầu, 15Y huy động được 300 tỷ đồng/2.500 tỷ đồng gọi thầu và 30Y huy động được 260 tỷ đồng/500 tỷ đồng gọi thầu. Kỳ hạn 5Y gọi thầu 500 tỷ đồng, tuy nhiên, không có khối lượng trúng thầu. Lãi suất trúng thầu ở các kỳ hạn đều không thay đổi so với phiên đấu thầu trước, cụ thể kỳ hạn 10Y là 2,66%, 15Y 2,86% và 30Y là 3,10%.
Trong tuần này, ngày 16/10, KBNN dự kiến chào thầu 11.000 tỷ đồng TPCP, trong đó kỳ hạn 5Y, 7Y và 30Y chào thầu 500 tỷ đồng mỗi kỳ hạn, 10Y chào thầu 7.000 tỷ đồng và 15Y 2.500 tỷ đồng.
Giá trị giao dịch Outright và Repos trên thị trường thứ cấp tuần qua đạt trung bình 13.503 tỷ đồng/phiên, tăng khá so với mức 10.258 tỷ đồng/phiên của tuần trước đó. Lợi suất TPCP trong tuần qua biến động nhẹ ở các kỳ hạn 5Y-15Y. Chốt phiên 11/10, lợi suất TPCP giao dịch quanh 1Y 1,85% (không đổi so với phiên cuối tuần trước); 2Y 1,86% (không đổi); 3Y 1,88% (không đổi); 5Y 1,90% (-0,006 đpt); 7Y 2,15% (-0,004 đpt); 10Y 2,66% (-0,006 đpt); 15Y 2,86% (-0,005 đpt); 30Y 3,16% (không đổi).
Thị trường chứng khoán: Tuần từ 07/10 - 11/10, thị trường chứng khoán tương đối tích cực. Kết thúc phiên 11/10, VN-Index đứng ở mức 1.288,39 điểm, tăng 17,99 điểm (+1,40%) so với cuối tuần trước đó; HNX-Index mất 1,30 điểm (-0,56%) còn 231,37 điểm; UPCom-Index nhích 0,23 điểm (+0,25%) lên mức 92,60 điểm.
Thanh khoản thị trường trung bình đạt khoảng 16.200 tỷ đồng/phiên, giảm so với mức 19.800 tỷ đồng/phiên của tuần trước đó. Khối ngoại bán ròng mạnh gần 2.000 tỷ đồng trên cả 3 sàn.
Tin quốc tế
Biên bản cuộc họp tháng 9 của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ Fed được công bố cuối tuần qua, bên cạnh đó, Mỹ đón nhận một số chỉ số kinh tế quan trọng. Theo biên bản cuộc họp ngày 17-18/9 vừa được công bố, các quan chức Fed có quan điểm chia rẽ về mức độ cắt giảm lãi suất chính sách. Phần lớn quan chức ủng hộ mức cắt giảm lớn hơn là 0,5 đpt, tuy nhiên một số khác lại cho rằng mức 0,25 đpt hợp lý hơn. Cuối cùng, quyết định hạ LSCS xuống phạm vi từ 4,75% đến 5,0% được 11 trong số 12 thành viên của FOMC ủng hộ. Biên bản cuộc họp không nhắc nhiều về những quyết định với lãi suất trong thời gian tới. Liên quan đến thông tin kinh tế Mỹ, chỉ số giá tiêu dùng CPI toàn phần và CPI lõi lần lượt tăng 0,3% m/m và 0,2% m/m trong tháng 9, đều bằng mức tăng của tháng trước đó và cùng cao hơn dự báo ở mức 0,2% và 0,1%. Đây là mức CPI thấp nhất kể từ tháng 2/2021. So với cùng kỳ năm 2023, CPI tăng 2,4% y/y, thấp hơn mức tăng 2,5% của tháng 8 nhưng cao hơn mức tăng 2,3% dự báo của thị trường. Trên thị trường lao động, số đơn xin trợ cấp thất nghiệp lần đầu tuần từ 30/09 đến 04/10 ở mức 258 nghìn đơn, cao hơn mức 225 nghìn của tuần trước đó và dự báo ở mức 231 nghìn. Đây là con số cao nhất trong gần 1 năm qua, chủ yếu là do tác động của Bão Helene và đình công của người lao động Hãng Boeing, được các chuyên gia đánh giá chỉ là các yếu tố tạm thời. Ở lĩnh vực sản xuất, chỉ số giá sản xuất PPI lõi của Mỹ tăng 0,2% m/m trong tháng 9, tuy thấp hơn mức tăng 0,3% của tháng 8 nhưng bằng với dự báo của thị trường. Trong khi đó PPI toàn phần đi ngang trong tháng vừa qua (0,0% m/m) sau khi tăng 0,2% tháng trước đó, không được như kỳ vọng với mức tăng 0,1%.
Nước Anh đón một số thông tin kinh tế đáng chú ý. GDP nước này tăng 0,2% m/m trong tháng 8 như dự báo của thị trường, tích cực hơn mức đi ngang (0,0%) của tháng trước đó. Sản lượng sản xuất của Anh tăng mạnh 1,1% m/m trong tháng 8 sau khi giảm 1,2% tháng 7, cao hơn dự báo ở mức tăng 0,3%. Sản lượng xây dựng tháng 8 nước này cũng khá tích cực khi tăng 0,4% m/m từ mức giảm 0,4% của tháng trước đó, tuy nhiên vẫn thấp hơn dự báo ở mức tăng 0,5%. Về thương mại, cán cân thương mại hàng hóa nước này thâm hụt 15,1 tỷ GBP trong tháng 8, ít hơn mức thâm hụt 18,9 tỷ của tháng 7 và dự báo ở mức 18,8 tỷ GBP. Trên thị trường bất động sản, Hãng Halifax khảo sát cho biết giá nhà bình quân tại nước Anh đạt mức 293,4 nghìn GBP/căn trong tháng 9, tăng lên từ 292,5 nghìn của tháng trước đó, tương ứng tăng 0,3% m/m, bằng với mức tăng của tháng trước đó. Đây là mức giá cao nhất mà nước này ghi nhận kể từ tháng 06/2022. So với cùng kỳ năm 2023, giá nhà tại quốc gia này tăng khoảng 4,7% y/y.
Tổng hợp Kinh tế - Tài chính tuần 04/10 - 11/10/2024