Tổng quan:
Tình hình kinh tế - xã hội tiếp tục xu hướng tích cực, tháng sau tốt hơn tháng trước và 8 tháng đầu năm 2025 tốt hơn cùng kỳ năm 2024 trên hầu hết các lĩnh vực. Tuy nhiên cũng còn không ít khó khăn, thách thức cần vượt qua để đạt tăng trưởng kinh tế hơn 8% cả năm.
Theo Cục Thống kê, Bộ Tài chính, chỉ số giá tiêu dùng CPI tháng 8 tăng 0,05% so với tháng trước; tăng 2,18% so với tháng 12/2024; tăng 3,24% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân 8 tháng năm 2025, CPI tăng 3,25% so với cùng kỳ năm trước; lạm phát cơ bản tăng 3,19%. Chỉ số giá vàng tháng 8 tăng 1,2% so với tháng trước; tăng 48,62% so với cùng kỳ năm 2024; tăng 36,51% so với tháng 12/2024; bình quân 8 tháng năm 2025 tăng 40,25% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá USD tháng 8 tăng 0,36% so với tháng trước; tăng 4,43% so với cùng kỳ năm 2024; tăng 3,67% so với tháng 12/2024; bình quân 8 tháng năm 2025 tăng 3,45% so với cùng kỳ năm trước.
Sản xuất công nghiệp tháng 8 tiếp tục duy trì đà tăng trưởng. Chỉ số sản xuất công nghiệp IIP tháng 8 ước tăng 2,2% so với tháng trước và tăng 8,9% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 8 tháng năm 2025, IIP ước tăng 8,5% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2024 tăng 8,4%).
Về đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, 8 tháng đầu năm 2025, tổng vốn ĐTNN đăng ký vào Việt Nam đạt 26,14 tỷ USD, tăng 27,3% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, vốn đăng ký cấp mới có 2.534 dự án được cấp phép với số vốn đăng ký đạt 11,03 tỷ USD, tăng 12,6% so với cùng kỳ năm trước về số dự án và giảm 8,1% về số vốn đăng ký. Vốn ĐTNN thực hiện tại Việt Nam ước đạt 15,40 tỷ USD, tăng 8,8% so với cùng kỳ năm trước. Đây là mức vốn ĐTNN thực hiện tại Việt Nam 8 tháng cao nhất trong 5 năm qua.
Về thương mại, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 8 ước đạt 43,39 tỷ USD, tăng 2,6% so với tháng trước và tăng 14,5% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 8 tháng năm 2025, kim ngạch XK hàng hóa đạt 305,96 tỷ USD, tăng 14,8% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 76,69 tỷ USD, tăng 3,2%, chiếm 25,1% tổng kim ngạch XK; khu vực có vốn ĐTNN (kể cả dầu thô) đạt 229,27 tỷ USD, tăng 19,3%, chiếm 74,9%. Ở chiều ngược lại, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng 8 ước đạt 39,67 tỷ USD, giảm 0,8% so với tháng trước và tăng 17,7% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 8 tháng, kim ngạch NK hàng hóa đạt 291,97 tỷ USD, tăng 17,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 94,77 tỷ USD, tăng 5,3%; khu vực có vốn ĐTNN đạt 197,2 tỷ USD, tăng 25,1%. Cán cân thương mại hàng hóa tháng 8 xuất siêu 3,72 tỷ USD. Tính chung 8 tháng, CCTM hàng hóa xuất siêu 13,99 tỷ USD (cùng kỳ 2024 xuất siêu 18,84 tỷ USD). Trong đó, khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 18,08 tỷ USD; khu vực có vốn ĐTNN (kể cả dầu thô) xuất siêu 32,07 tỷ USD. Theo Bộ Công Thương, dự kiến kim ngạch XNK năm 2025 có thể đạt 800 tỷ USD, mức kỷ lục mới.
Về thu, chi ngân sách nhà nước, tổng thu NSNN tháng 8 ước đạt 158,8 nghìn tỷ đồng. Lũy kế tổng thu NSNN 8 tháng năm 2025 ước đạt 1.740,0 nghìn tỷ đồng, bằng 88,5% dự toán năm và tăng 28,5% so với cùng kỳ năm trước. Tổng chi NSNN tháng 8 ước đạt 183,1 nghìn tỷ đồng. Lũy kế tổng chi NSNN 8 tháng năm 2025 ước đạt 1.450,3 nghìn tỷ đồng, bằng 56,3% dự toán năm và tăng 31,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong cơ cấu chi NSNN 8 tháng năm 2025, chi thường xuyên chiếm tỷ trọng lớn nhất, khoảng 65,7%; chi đầu tư phát triển chiếm 27,8%, chi trả lãi vay chỉ chiếm 4,8%.
Về đầu tư công, ước giải ngân từ đầu năm đến ngày 31/08/2025 là 409,174,5 tỷ đồng, đạt 39,9% kế hoạch, đạt 46,3% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao (cùng kỳ năm 2024 đạt 36,9% kế hoạch và đạt 40,4% kế hoạch TTCP giao); về số tuyệt đối, cao hơn khoảng khoảng 135.000 tỷ đồng so với 8 tháng năm 2024.
Dù đạt được các kết quả khả quan trên, theo Chính phủ, từ nay đến cuối năm, nền kinh tế cũng còn không ít khó khăn, thách thức. Trong đó, tăng trưởng xuất khẩu đang có xu hướng chậm lại; số lượng đơn hàng mới giảm do ảnh hưởng từ chính sách thuế của Mỹ; tiêu dùng chưa thật sự đột phá; đầu tư tư nhân, thu hút các dự án ĐTNN quy mô lớn, hiện đại chưa được như kỳ vọng… Bên cạnh đó, ổn định kinh tế vĩ mô chưa thật sự vững chắc, tiềm ẩn rủi ro; áp lực lạm phát cần tiếp tục theo dõi sát; điều hành tỷ giá, lãi suất chịu áp lực lớn, khó khăn trong việc kiểm soát dòng vốn tín dụng vào sản xuất kinh doanh…
Từ kết quả thực tiễn 8 tháng đầu năm cũng như kết quả các năm trước, dự báo tình hình những tháng cuối năm nay, Bộ Tài chính đánh giá, nước ta cơ bản hoàn thành mục tiêu tổng quát của kế hoạch năm 2025, dự kiến đạt và vượt toàn bộ 15/15 chỉ tiêu chủ yếu. Trong đó, tăng trưởng GDP năm 2025 ước đạt tối thiểu 8%, đạt mục tiêu của Chính phủ, Quốc hội đề ra; GDP bình quân đầu người đạt khoảng 5.000 USD, trở thành nước thu nhập trung bình cao; lạm phát khoảng 4%, ...
Tóm lược thị trường trong nước từ 03/09 - 05/09/2025
Thị trường ngoại tệ: Trong tuần từ 03/09 - 05/09, tỷ giá trung tâm được NHNN điều chỉnh tăng nhẹ qua các phiên. Chốt ngày 05/09, tỷ giá trung tâm được niêm yết ở mức 25.248 VND/USD, tăng 08 đồng so với phiên cuối tuần trước đó. NHNN niêm yết tỷ giá mua giao ngay ở mức 24.036 VND/USD, cao hơn 50 đồng so với tỷ giá sàn; tỷ giá bán giao ngay được niêm yết mức ở mức 26.460 VND/USD, thấp hơn 50 đồng so với tỷ giá trần.
Tỷ giá LNH trong tuần từ 03/09 - 05/09 diễn biến theo xu hướng tăng. Kết thúc phiên 05/09, tỷ giá LNH đóng cửa tại 26.399 VND/USD, tăng 50 đồng so với phiên cuối tuần trước đó.
Tỷ giá trên thị trường tự do tuần qua tiếp tục tăng. Chốt phiên 05/09, tỷ giá tự do tăng 150 đồng ở chiều mua vào và 180 đồng ở chiều bán ra so với phiên cuối tuần trước đó, giao dịch tại 26.800 VND/USD và 26.900 VND/USD.
Thị trường tiền tệ LNH: Tuần từ 03/09 - 05/09, lãi suất VND LNH các kỳ hạn từ 1M trở xuống tăng mạnh phiên đầu sau kỳ nghỉ lễ rồi giảm trở lại. Kết thúc ngày 05/09, lãi suất VND LNH giao dịch ở mức: ON 4,00% (+0,16 đpt); 1W 4,42% (+0,03 đpt); 2W 4,72% (-0,27 đpt); 1M 5,24% (-0,09 đpt).
Lãi suất USD LNH biến động nhẹ ở tất cả các kỳ hạn trong tuần qua. Chốt phiên 05/09, lãi suất USD LNH giao dịch tại: ON 4,30% (không đổi); 1W 4,37% (+0,02 đpt); 2W 4,41% (+0,01 đpt) và 1M 4,44% (+0,01 đpt).
Thị trường mở: Trên thị trường mở tuần qua từ 03/09 - 05/09, ở kênh cầm cố, NHNN chào thầu 57.000 tỷ đồng với các kỳ hạn 7 ngày, 14 ngày, 28 ngày và 91 ngày, lãi suất đều giữ ở mức 4,0%. Có 49.429,11 tỷ đồng trúng thầu ở 3 kỳ hạn 7 ngày, 14 ngày và 28 ngày; không có khối lượng trúng thầu ở kỳ hạn 91 ngày. Có 62.002,46 tỷ đồng đáo hạn trong tuần qua trên kênh cầm cố.
NHNN không chào thầu tín phiếu NHNN trong tuần qua.
Như vậy, NHNN hút ròng 12.573,35 tỷ đồng từ thị trường tuần qua qua kênh thị trường mở. Có 150.939,15 tỷ đồng lưu hành trên kênh cầm cố.
Thị trường trái phiếu: Phiên 03/09, KBNN chỉ đấu thầu thành công 100 tỷ đồng ở kỳ hạn 10Y trong tổng số 13.500 tỷ đồng TPCP gọi thầu (tương đương tỷ lệ trúng thầu đạt 0,7%). Lãi suất trúng thầu là 3,45%, không đổi so với phiên đấu thầu trước. Kỳ hạn 5Y, 15Y và 30Y gọi thầu lần lượt 1.000 tỷ đồng, 3.000 tỷ đồng và 500 tỷ đồng, tuy nhiên, không có khối lượng trúng thầu ở cả 3 kỳ hạn.
Ngày 10/09, KBNN dự kiến chào thầu 13.500 tỷ đồng TPCP, trong đó kỳ hạn 5Y chào thầu 1.000 tỷ đồng, kỳ hạn 10Y chào thầu 9.000 tỷ đồng, kỳ hạn 15Y chào thầu 3.000 tỷ đồng và kỳ hạn 30Y chào thầu 500 tỷ đồng.
Giá trị giao dịch Outright và Repos trên thị trường thứ cấp tuần 03/09 – 05/09 đạt trung bình 5.836 tỷ đồng/phiên, giảm mạnh so với mức 18.773 tỷ đồng/phiên của tuần trước đó. Lợi suất TPCP trong tuần qua tăng nhẹ ở hầu hết các kỳ hạn trừ các kỳ hạn từ 5Y-10Y. Chốt phiên 05/09, lợi suất TPCP giao dịch quanh 1Y 2,65% (+0,02 đpt); 2Y 2,69% (+0,02 đpt); 3Y 2,74% (+0,09 đpt); 5Y 3,01% (-0,003 đpt); 7Y 3,36% (-0,03 đpt); 10Y 3,54% (-0,01 đpt); 15Y 3,62% (+0,005 đpt); 30Y 3,77% (+0,01 đpt).
Thị trường chứng khoán: Tuần từ 03/09 - 05/09, trên thị trường chứng khoán, các chỉ số biến động tăng – giảm đan xen, VN-Index giảm điểm sau 4 tuần tăng liên tiếp. Kết thúc phiên 05/09, VN-Index đứng ở mức 1.666,97 điểm, giảm 15,24 điểm (-0,91%) so với phiên cuối tuần trước đó; HNX-Index thêm 0,69 điểm (+0,25%) đạt 280,67 điểm; UPCom-Index tăng 0,82 điểm (+0,74%) lên 111,82 điểm.
Thanh khoản thị trường trung bình đạt khoảng gần 43.400 tỷ đồng/phiên, giảm nhẹ so với mức 47.400 tỷ đồng/phiên của tuần trước đó. Khối ngoại bán ròng mạnh trên 2.400 tỷ đồng trên cả 3 sàn.
Tin quốc tế
Tuần qua, nước Mỹ đón một số chỉ báo kinh tế quan trọng. Đầu tiên, Viện Quản lý Cung ứng ISM cho biết PMI lĩnh vực sản xuất nước này ở mức 48,7% trong tháng 8, tăng nhẹ so với 48,0% của tháng 7 và gần khớp với kỳ vọng ở mức 49,0%. PMI lĩnh vực dịch vụ trong tháng vừa qua cũng tăng lên 52,0% từ 50,1% của tháng 7, cao hơn mức 50,9% theo dự báo. Tiếp theo, về thị trường lao động, Bộ Lao động Mỹ cho biết nước này tạo ra 7,18 triệu cơ hội việc làm mới trong tháng 7, thấp hơn mức 7,36 triệu của tháng 6 và đồng thời thấp hơn mức 7,38 triệu theo kỳ vọng. Đây là mức cơ hội việc làm thấp nhất tại Mỹ kể từ tháng 03/2021 cho tới nay. Sang tháng 8, nước Mỹ chỉ tạo ra 22 nghìn việc làm phi nông nghiệp mới, thấp hơn mức 79 nghìn của tháng trước đó và đồng thời thấp hơn mức 75 nghìn theo dự báo, ghi nhận mức thấp thứ hai kể từ đầu năm 2021 cho tới nay. Tỷ lệ thất nghiệp tại Mỹ trong tháng 8 cũng tăng từ mức 4,2% lên 4,3%, khớp với dự báo của thị trường, cũng là mức cao nhất kể từ sau tháng 11/2021. Thu nhập bình quân của người lao động Mỹ trong tháng vừa qua tăng 0,3% m/m, bằng với mức tăng của tháng 7 và cũng khớp với dự báo. So với cùng kỳ năm 2024, thu nhập của người dân Mỹ tăng khoảng 3,7% y/y. Tiếp theo, số đơn xin trợ cấp thất nghiệp tại Mỹ tuần kết thúc ngày 30/08 ở mức 237 nghìn đơn, tăng lên từ 229 nghìn đơn của tuần trước đó, đồng thời cao hơn mức 230 nghìn đơn theo dự báo. Số đơn bình quân 4 tuần gần nhất là 231 nghìn đơn, tăng 2,5 nghìn so với 4 tuần liền trước. Như vậy, nhiều chỉ báo cho thấy thị trường lao động tại Mỹ đang có dấu hiệu nới lỏng, khớp với những gì mà Fed quan ngại và có thể sẽ tiếp tục hạ LSCS kể từ cuộc họp ngày 16-17/09. Hiện tại, công cụ dự báo của CME cho thấy có 87% khả năng Fed sẽ cắt giảm 25 đcb trong cuộc họp tới, và có 13% khả năng cắt giảm 50 đcb. Theo kịch bản chiếm ưu thế, Fed có thể cắt giảm LSCS 3 lần liên tiếp (tương đương 75 đcb, LSCS về mức 3,50% - 3,75%) trong những tháng cuối năm 2025, và cắt giảm thêm 2 lần (50 đcb, LSCS về mức 3,0% - 3,25%) ở nửa đầu năm 2026. Trong tuần này, thị trường chờ đợi báo cáo về chỉ số giá tiêu dùng CPI toàn phần và CPI lõi tại Mỹ, được công bố vào ngày 11/09 theo giờ Việt Nam. Các con số này có thể ảnh hưởng tới kỳ vọng của thị trường, và cả nhận định của Fed trong phiên họp giữa tháng 9.
Kinh tế Úc cũng ghi nhận các con số đáng chú ý trong tuần qua. Cụ thể, Văn phòng Thống kê Úc ABS công bố GDP nước này tăng 0,6% q/q trong quý 2, nối tiếp đà tăng 0,3% của quý trước đó và đồng thời cao hơn mức tăng 0,5% theo kỳ vọng. So với cùng kỳ năm 2024, GDP Úc tăng khoảng 1,3% y/y. Tiếp theo, cán cân thương mại Úc thặng dư 7,31 tỷ AUD trong tháng 7, cao hơn mức thặng dư 5,37 tỷ của tháng trước đó và đồng thời vượt nhiều so với dự báo thặng dư 4,88 tỷ. Tại lĩnh vực tiêu dùng, chi tiêu của các hộ gia đình ở Úc tăng 0,5% m/m trong tháng 7, nối tiếp đà tăng 0,3% của tháng 6 và cũng khớp với dự báo của các chuyên gia. So với cùng kỳ năm 2024, chỉ báo này tăng khá mạnh 5,1% y/y. Cuối cùng, tại lĩnh vực xây dựng, số cấp phép xây nhà tại Úc giảm mạnh 8,2% m/m trong tháng 7 sau khi tăng 12,2% ở tháng 6, sâu hơn mức giảm 4,8% theo dự báo.
Tổng hợp Kinh tế - Tài chính tuần 03/09 - 05/09/2025