Tổng quan:
Kinh tế Việt Nam 7 tháng đầu năm 2025 được cho là tiếp tục khởi sắc với nhiều chỉ số tích cực, tuy nhiên đã xuất hiện những quan ngại về triển vọng ...
Cụ thể, về chỉ số giá tiêu dùng, CPI tháng 7 tăng 0,11% so với tháng trước, chủ yếu do giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở, giá thực phẩm, ăn uống ngoài gia đình tăng. CPI tháng 7 tăng 2,13% so với cuối năm ngoái và tăng 3,19% so với cùng kỳ năm 2024. Bình quân 7 tháng năm 2025, CPI tăng 3,26% so với cùng kỳ năm ngoái. Lạm phát cơ bản tháng 7 tăng 0,21% so với tháng trước và tăng 3,3% so với cùng kỳ năm 2024. Lũy kế 7 tháng năm 2025, lạm phát cơ bản tăng 3,18% so với cùng kỳ năm ngoái, thấp hơn mức tăng 3,26% của CPI bình quân chung, nguyên nhân chủ yếu do giá lương thực, thực phẩm, điện sinh hoạt, giá dịch vụ y tế, dịch vụ giáo dục là những yếu tố tác động làm tăng CPI nhưng thuộc nhóm hàng được loại trừ trong danh mục tính lạm phát cơ bản.
Theo ý kiến của Thống đốc NHNN, lạm phát của Việt Nam vẫn trong tầm kiểm soát, nhưng áp lực đang gia tăng. Việc điều chỉnh giá điện, dịch vụ y tế và nhà ở đã gây áp lực lên chi phí đầu vào và đẩy lạm phát cơ bản liên tục tăng trong những tháng gần đây. NHNN đang theo dõi chặt chẽ dòng tiền chảy vào thị trường bất động sản và chứng khoán trong nước, hiện đã mạnh hơn trong thời gian gần đây nhưng phù hợp với nỗ lực của Chính phủ nhằm giải quyết những khó khăn nền kinh tế đang gặp phải...
Năm 2025, Chính phủ đặt mục tiêu giữ lạm phát trong khoảng 4,5%-5,0% để hỗ trợ tăng trưởng GDP trên 8%.
Về thương mại, trong tháng 7, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa đạt 82,27 tỷ USD, tăng 8,0% so với tháng trước và tăng 16,8% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 7 tháng đầu năm, tổng kim ngạch XNK hàng hóa đạt 514,7 tỷ USD, tăng 16,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó XK tăng 14,8%, vượt chỉ tiêu tăng trưởng XK đã đề ra; NK tăng 17,9%. Cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu 10,18 tỷ USD (cùng kỳ năm 2024 xuất siêu 14,64 tỷ USD).
Trong đó, về XK, kim ngạch XK hàng hóa tháng 7 đạt 42,27 tỷ USD, tăng 6,9% so với tháng trước; khu vực kinh tế trong nước đạt 8,95 tỷ USD, tăng 3,5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 33,32 tỷ USD, tăng 7,9%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch XK hàng hóa tháng 7 tăng 16,0%, trong đó khu vực kinh tế trong nước giảm 10,3%, khu vực có vốn ĐTNN (kể cả dầu thô) tăng 25,9%. Tính chung 7 tháng năm 2025, kim ngạch XK hàng hóa đạt 262,44 tỷ USD, tăng 14,8% so với cùng kỳ năm trước; khu vực kinh tế trong nước đạt 67,48 tỷ USD, tăng 6,7%, chiếm 25,7% tổng kim ngạch XK; khu vực có vốn ĐTNN (kể cả dầu thô) đạt 194,96 tỷ USD, tăng 17,9%, chiếm 74,3%. Về cơ cấu nhóm hàng XK 7 tháng năm 2025, nhóm hàng công nghiệp chế biến chế tạo đạt 232,37 tỷ USD, chiếm 88,6%.
Ở chiều ngược lại, kim ngạch NK hàng hóa tháng 7 đạt 40,0 tỷ USD, tăng 9,1% so với tháng trước và tăng 17,8% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 7 tháng năm 2025, kim ngạch NK hàng hóa đạt 252,26 tỷ USD, tăng 17,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 84,07 tỷ USD, tăng 8,0%; khu vực có vốn ĐTNN đạt 168,19 tỷ USD, tăng 23,6%. Về cơ cấu nhóm hàng NK 7 tháng đầu năm, nhóm hàng tư liệu sản xuất đạt 236,57 tỷ USD, chiếm 93,8%. Có thể thấy, hoạt động sản xuất, XK đều phục hồi nên doanh nghiệp đẩy mạnh NK nguyên liệu phục vụ sản xuất cho đơn hàng XK.
Về thị trường XK hàng hóa 7 tháng năm 2025, Hoa Kỳ vẫn là thị trường XK lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 85,1 tỷ USD. Trong 7 tháng đầu năm, xuất siêu sang Hoa Kỳ đạt 74,6 tỷ USD, tăng 28,6% so với cùng kỳ năm trước. Có thể thấy, các doanh nghiệp XK đã tận dụng tốt thời gian chưa bị áp thuế đối ứng để tăng cường xuất khẩu. Tuy nhiên, kể từ 07/08, khi Mỹ áp dụng mức thuế mới 20% cho hàng Việt Nam nhập khẩu vào Mỹ và 40% cho hàng trung chuyển, trong khi nhiều sản phẩm xuất khẩu Việt Nam có hàm lượng nội địa hóa thấp, phụ thuộc vào linh kiện hoặc nguyên liệu NK, là điểm yếu có thể tác động đáng kể đến khả năng cạnh tranh khi bị áp mức thuế cao. Dự báo tăng trưởng XK, đặc biệt XK sang Mỹ, thời gian tới đây sẽ chậm lại, trừ phi thuế đối ứng Mỹ linh hoạt giảm trở lại khi Việt Nam cam kết mạnh mẽ hơn giảm mức độ phụ thuộc vào chuỗi cung từ Trung Quốc.
Tóm lược thị trường trong nước từ 04/08 - 08/08/2025
Thị trường ngoại tệ: Trong tuần từ 04/08 - 08/08, tỷ giá trung tâm được NHNN điều chỉnh tăng – giảm đan xen qua các phiên. Chốt ngày 08/08, tỷ giá trung tâm được niêm yết ở mức 25.228 VND/USD, giảm 11 đồng so với phiên cuối tuần trước đó. NHNN niêm yết tỷ giá mua giao ngay ở mức 24.017 VND/USD, cao hơn 50 đồng so với tỷ giá sàn; tỷ giá bán giao ngay được niêm yết mức 26.439 VND/USD, thấp hơn 50 đồng so với tỷ giá trần.
Tỷ giá LNH trong tuần từ 04/08 - 08/08 tiếp tục biến động tăng – giảm đan xen. Kết thúc phiên 08/08, tỷ giá LNH đóng cửa tại 26.228 VND/USD, tăng nhẹ 11 đồng so với phiên cuối tuần trước đó.
Tỷ giá trên thị trường tự do tuần qua ít biến động. Chốt phiên 08/08, tỷ giá tự do giảm 20 đồng ở chiều mua vào trong khi tăng 30 đồng ở chiều bán ra so với phiên cuối tuần trước đó, giao dịch tại 26.420 VND/USD và 26.480 VND/USD.
Thị trường tiền tệ LNH: Tuần từ 04/08 - 08/08, lãi suất VND LNH các kỳ hạn từ 1M trở xuống tuy tăng - giảm đan xen nhưng chốt tuần vẫn tăng mạnh so với cuối tuần trước đó. Kết thúc ngày 08/08, lãi suất VND LNH giao dịch ở mức: ON 6,28% (+0,88 đpt); 1W 6,38% (+0,93 đpt); 2W 6,20% (+0,75 đpt); 1M 5,75% (+0,37 đpt).
Lãi suất USD LNH biến động nhẹ ở tất cả các kỳ hạn trong tuần qua. Chốt phiên 08/08, lãi suất USD LNH giao dịch tại: ON 4,30% (không đổi); 1W 4,36% (không đổi); 2W 4,40% (-0,01 đpt) và 1M 4,42% (-0,01 đpt).
Thị trường mở: Trên thị trường mở tuần qua từ 04/08 - 08/08, ở kênh cầm cố, NHNN chào thầu 210.000 tỷ đồng với các kỳ hạn 7 ngày, 14 ngày, 28 ngày và 91 ngày, lãi suất đều giữ ở mức 4,0%. Có 125.479,72 tỷ đồng trúng thầu ở cả 4 kỳ hạn; có 118.125,18 tỷ đồng đáo hạn trong tuần qua trên kênh cầm cố.
NHNN không chào thầu tín phiếu NHNN trong tuần qua.
Như vậy, NHNN bơm ròng 7.354,54 tỷ đồng ra thị trường trong tuần qua qua kênh thị trường mở. Có 216.459,65 tỷ đồng lưu hành trên kênh cầm cố.
Thị trường trái phiếu: Phiên 06/08, KBNN đấu thầu thành công 4.375 tỷ đồng/12.000 tỷ đồng TPCP gọi thầu, tỷ lệ trúng thầu chỉ đạt 36%. Trong đó, kỳ hạn 10Y huy động được 3.835 tỷ đồng/ 8.000 tỷ đồng gọi thầu, kỳ hạn 15Y huy động được 500 tỷ đồng/3.000 tỷ đồng và kỳ hạn 30Y huy động được 40 tỷ đồng/500 tỷ đồng gọi thầu. Kỳ hạn 5Y gọi thầu 500 tỷ đồng, tuy nhiên, không có khối lượng trúng thầu. Lãi suất trúng thầu ở kỳ hạn 10Y là 3,33% (+0,04 đpt so với phiên đấu thầu trước), 15Y là 3,42% (+0,02 đpt) và 30Y là 3,45% (không đổi).
Ngày 13/08, KBNN dự kiến chào thầu 12.000 tỷ đồng TPCP, trong đó kỳ hạn 5Y chào thầu 500 tỷ đồng, kỳ hạn 7Y chào thầu 500 tỷ đồng, kỳ hạn 10Y chào thầu 7.000 tỷ đồng, kỳ hạn 15Y chào thầu 3.000 tỷ đồng, kỳ hạn 20Y chào thầu 500 tỷ đồng và kỳ hạn 30Y chào thầu 500 tỷ đồng.
Giá trị giao dịch Outright và Repos trên thị trường thứ cấp tuần qua đạt trung bình 19.880 tỷ đồng/phiên, tăng mạnh so với mức 10.942 tỷ đồng/phiên của tuần trước đó. Lợi suất TPCP trong tuần qua tiếp tục tăng ở tất cả các kỳ hạn. Chốt phiên 08/08, lợi suất TPCP giao dịch quanh 1Y 2,41% (+0,06 đpt so với phiên cuối tuần trước); 2Y 2,45% (+0,06 đpt); 3Y 2,53% (+0,07 đpt); 5Y 2,77% (+0,01 đpt); 7Y 3,08% (+0,01 đpt); 10Y 3,37% (+0,03 đpt); 15Y 3,47% (+0,03 đpt); 30Y 3,61% (+0,04 đpt).
Thị trường chứng khoán: Tuần từ 04/08 - 08/08, thị trường chứng khoán có một tuần sôi động, ngập tràn trong sắc xanh, thanh khoản duy trì mức rất cao. Kết thúc phiên 08/08, VN-Index đứng ở mức 1.584,95 điểm, tăng vọt 89,74 điểm (+6,00%) so với phiên cuối tuần trước đó; HNX-Index thêm 7,53 điểm (+2,84%) đạt 272,46 điểm; UPCom-Index tăng 2,08 điểm (+1,95%) lên 108,54 điểm.
Thanh khoản thị trường trung bình đạt khoảng gần 55.400 tỷ đồng/phiên, chỉ giảm nhẹ so với mức đỉnh 59.570 tỷ đồng/phiên của tuần trước đó. Khối ngoại bán ròng trên 850 tỷ đồng trên cả 3 sàn.
Tin quốc tế
Kinh tế Mỹ ghi nhận một số chỉ báo đáng chú ý. Đầu tiên, Văn phòng Thống kê Mỹ cho biết sản lượng phi nông nghiệp tại nước này tăng 2,4% q/q trong quý 2 sau khi giảm 1,5% ở quý trước đó, cao hơn mức tăng 1,9% theo dự báo. So với cùng kỳ năm 2024, sản lượng phi nông nghiệp quý vừa qua tăng 1,3% y/y. Tiếp theo, Viện Quản lý Cung ứng Mỹ cho biết chỉ số PMI lĩnh vực dịch vụ tại nước này ở mức 50,1% trong tháng 7, giảm xuống từ 50,8% của tháng 6 và trái với kỳ vọng tăng lên mức 51,5%. Đây là mức PMI dịch vụ thấp thứ 2 của Mỹ trong vòng 1 năm. Tại thị trường lao động, số đơn xin trợ cấp thất nghiệp lần đầu tại Mỹ tuần kết thúc ngày 02/08 ở mức 226 nghìn đơn, tăng nhẹ lên từ 219 nghìn đơn của tuần trước đó, đồng thời cao hơn mức 221 nghìn đơn theo dự báo. Số đơn bình quân 4 tuần gần nhất ở mức 220,8 nghìn đơn, giảm nhẹ khoảng 0,5 nghìn so với 4 tuần liền trước. Trong tuần này, thị trường chờ đợi các thông tin quan trọng bao gồm chỉ số giá tiêu dùng CPI tại Mỹ, chỉ số giá sản xuất PPI và doanh số bán lẻ trong tháng 7. Những dữ liệu này có thể sẽ ảnh hưởng tới kỳ vọng của thị trường về khả năng cắt giảm LSCS trong những tháng cuối năm 2025. Hiện tại, công cụ của CME cho thấy có 88% khả năng Fed cắt giảm LS 25 đcb trong cuộc họp tiếp theo ngày 17/09, và 12% khả năng cắt giữ nguyên LSCS ở mức 4,25% - 4,50%. Theo kịch bản chiếm ưu thế, Fed có thể cắt giảm 3 lần liên tiếp trong 3 cuộc họp cuối năm nay, đưa LSCS kết thúc 2025 xuống còn 3,50% - 3,75%.
NHTW Anh BOE cắt giảm LSCS trong cuộc họp tháng 8. Trong phiên họp ngày 07/08, Hội đồng CSTT của BOE (MPC) cho biết lạm phát CPI y/y đã tăng lên mức 3,5% trong quý 2/2025, chủ yếu do các yếu tố liên quan đến năng lượng, thực phẩm và giá do nhà nước quản lý. Tốc độ tăng trưởng tiền lương vẫn cao nhưng giảm tốc gần đây và sẽ tiếp tục giảm tốc những tháng cuối năm. MPC dự báo CPI sẽ tăng nhẹ lên mức 4,0% vào tháng 9 và sau đó sẽ giảm dần trở lại về mức mục tiêu trong năm 2026. Kinh tế của nước Anh nhìn chung vẫn yếu, phù hợp với sự nới lỏng dần của thị trường lao động. Những rủi ro tiêu cực từ địa chính trị vẫn thường trực, dù cho sự bất ổn ở chính sách thương mại toàn cầu phần nào đã giảm bớt. Tại cuộc họp lần này, MPC quyết định cắt giảm LSCS 25 đcb, từ mức 4,25% xuống còn 4,0% với sự đồng ý của 5/9 thành viên. 4 thành viên còn lại ủng hộ giữ nguyên mức LSCS ở 4,25%. Liên quan đến kinh tế Anh, trong tuần qua S&P Global khảo sát cho biết chỉ số PMI lĩnh vực xây dựng tại Anh ở mức 44,3 điểm trong tháng 7, giảm mạnh xuống từ 48,8 điểm của tháng trước đó và đồng thời thấp hơn mức 48,9 điểm theo dự báo, là mức PMI xây dựng thấp nhất của Anh trong 5 năm trở lại đây. Tuần này, thị trường chờ đợi báo cáo kinh tế và thị trường lao động Anh trong tháng 7. GDP Anh được dự báo tăng khoảng 0,2% m/m, và tỷ lệ thất nghiệp được dự báo giảm từ 5,0% xuống còn 4,7%.
Tổng hợp Kinh tế - Tài chính tuần 04/08 - 08/08/2025