Tổng quan:
Kể từ đầu quý III/2022, hoạt động xuất nhập khẩu giảm tốc, cho thấy những khó khăn được lường trước đã dần lộ diện.
Tổng cục Hải quan vừa công bố số liệu xuất nhập khẩu cả nước kỳ 1 tháng 11/2022. Theo đó, kim ngạch xuất khẩu từ 01-15/11 đạt 13,63 tỷ USD, trong khi nhập khẩu đạt 14,78 tỷ. Như vậy, kỳ 1 tháng 11, cán cân thương mại hàng hóa đã thâm hụt 1,15 tỷ USD, trái với mức thặng dư 2,39 tỷ của kỳ 2 tháng 10. Lũy kế từ đầu năm đến 15/11, kim ngạch XK đạt 326,67 tỷ USD, NK đạt 318,02 tỷ, như vậy, cán cân thương mại thặng dư 8,65 tỷ USD. Tổng giá trị XNK lũy kế từ đầu năm đến 15/11 đạt 644,69 tỷ USD, tăng 13,3% so với cùng kỳ năm 2021. Tổng trị giá XNK hàng hóa trong kỳ 1 tháng 11/2022 đạt 28,41 tỷ USD, giảm 6,27% so với kỳ 2 tháng 10. Nhìn lại từ tháng 10, tổng trị giá XNK hàng hóa trong kỳ 1 tháng 10/2022 đạt 27,75 tỷ USD, giảm 12,6% so với kỳ 2 tháng 9/2022, XNK hàng hóa cả tháng 10 cũng chỉ xấp xỉ mức của tháng 9 và giảm khoảng 11,5% so với tháng 8. Có thể thấy, càng về thời điểm cuối năm, dấu hiệu XNK giảm tốc càng rõ rệt hơn.
Như vậy, những nhận định của giới chuyên gia về việc XK nước ta những tháng cuối năm còn nhiều thách thức đã có những dấu hiệu xác thực. Đó là, vì nền kinh tế Việt Nam có độ mở lớn, sản xuất phụ thuộc nhiều vào nguồn và giá nguyên, nhiên vật liệu NK của thế giới, quy mô nền kinh tế khiêm tốn, sức chống chịu và khả năng cạnh tranh còn hạn chế. Do vậy, trong bối cảnh nền kinh tế phải đối mặt với nguy cơ lạm phát, tỷ giá đồng USD tăng cao, đồng thời lạm phát và suy thoái kinh tế đang diễn ra tại nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt từ tháng 9 trở đi, gây ra nhiều tác động làm nhu cầu tiêu dùng toàn cầu suy giảm, gây bất lợi đến hoạt động XK hàng hóa của Việt Nam. Đặc biệt, tại các thị trường XK lớn của Việt Nam là Mỹ, EU, lạm phát cao, người tiêu dùng tập trung nhu cầu chi tiêu cho lương thực, thực phẩm và những đồ dùng thiết yếu, do đó những mặt hàng XK chủ lực của Việt Nam như đồ gỗ, da giày, dệt may không được coi là đồ dùng thiết yếu nên bị cắt giảm chi tiêu mua vào thời điểm này khiến lượng đơn hàng giảm, khách hàng trì hoãn nhận hàng. Nhiều doanh nghiệp XK các mặt hàng chủ yếu của Việt Nam cho biết, thị trường xuất khẩu của họ đang giảm tốc từ 20 - 30% dù đang vào mùa cao điểm; từ nay đến cuối năm và thậm chí sang đến quý 1 năm sau cũng chưa có nhiều tín hiệu lạc quan. Theo Bộ Công thương, số lượng đơn đặt hàng trong quý 4/2022 thấp hơn 25-50% so với quý 2/2022, tương đương với mức giảm doanh thu 15-20% so với cùng kỳ theo ước tính, do lượng hàng tồn kho tại các thị trường nhập khẩu hiện ở mức cao. Bên cạnh đó, sự biến động của tỷ giá đồng USD cũng là một trở ngại đối với các giao dịch quốc tế; đồng nội tệ của nhiều nước đang mất giá so với đồng USD, khiến giá hàng XK của VN càng thêm khó cạnh tranh. Ngoài ra, bất ổn của kinh tế thế giới làm cho xăng dầu, gas tăng giá ảnh hưởng đến chi phí vận chuyển; giá cước tàu 1 tháng có thể tăng tới 50%. Xu hướng bảo hộ thương mại khi nguồn cung hàng hoá đứt gãy, chuỗi cung ứng vẫn nguy cơ gián đoạn, đặc biệt cung ứng nguyên nhiên vật liệu khiến các nước phải có biện pháp để ổn định hàng hoá trong nước. Ở trong nước, hoạt động sản xuất, kinh doanh tuy đã phục hồi nhưng còn gặp nhiều khó khăn chủ yếu do giá xăng dầu, vật tư đầu vào, chi phí sản xuất tăng cao; tình trạng thiếu hụt lao động cục bộ ở một số địa phương là trung tâm công nghiệp của cả nước và một số ngành, lĩnh vực như dệt may, lắp rắp linh kiện điện tử, chế biến gỗ...
Mặc dù xác định nhiều khó khăn như vậy, với tốc độ tăng trưởng XNK nhập khẩu như hiện nay, việc tổng kim ngạch XNK đạt mức 700 tỉ USD vào cuối năm 2022 là hoàn toàn khả thi. Theo Bộ Công thương, đây sẽ là một kỷ lục mới, một dấu mốc mới trong hoạt động thương mại quốc tế của VN. Dự kiến đây sẽ là năm thứ 7 Việt Nam xuất siêu. Để đạt được chỉ tiêu xuất khẩu cả năm, Bộ Công thương cho rằng các DN XK cần phải có những giải pháp sau đây: Thứ nhất, DN cần cập nhật tình hình đối tác, nước NK, nhu cầu tiêu dùng của các nước có quan hệ với Việt Nam để có đối sách phù hợp; thứ hai, DN nên không chỉ dựa vào các thị trường truyền thống và có kim ngạch NK hàng hoá lớn từ Việt Nam như Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, mà có thể chuyển hướng sang thị trường Nga và một số nước khác để bù đắp kim ngạch XK truyền thống bị giảm sút; thứ ba, cần đa dạng hoá mặt hàng, linh hoạt trong phương thức thanh toán, chủ động về nguyên nhiên vật liệu cho sản xuất XK, đa dạng hoá các phương tiện vận chuyển để giảm chi phí XK đi các nước… Ngoài ra, DN cần cập nhật tiêu chuẩn quốc gia, nhãn hàng và nhu cầu thị trường, Đặc biệt là tính đến đầu tư vào những mặt hàng có ưu thế XK và nâng chất, xây dựng thương hiệu quốc tế. Về phía cơ quan quản lý, các bộ, ngành cần hỗ trợ DN tiếp cận tín dụng, nối lại nguồn cung và tăng năng suất lao động, đầu tư hạ tầng nhằm cắt giảm chi phí hậu cần, logistics… Bộ Công Thương phải tăng cường vai trò, sự hiện diện của mình để các tham tán thương mại ở các nền kinh tế đóng vai trò tích cực hơn trong việc giới thiệu khách hàng tiềm năng; chủ động đa dạng hoá các thị trường tránh tập trung vào một vài thị trường, nhất là những thị trường mà có những cảnh báo rủi ro hoặc xác suất suy thoái cao; hỗ trợ DN khai thác tốt các Hiêp định thương mại tự do FTA đã ký kết để tăng tốc sản xuất, XK… Nhiều chuyên gia kinh tế cũng cho rằng, việc ổn định tỷ giá là quan trọng vì không chỉ giúp ổn định vĩ mô, giữ được dòng tiền trong nước mà còn hạn chế nhập khẩu lạm phát; muốn giữ ổn định tỉ giá thì phải chấp nhận một mặt bằng lãi suất cao hơn và kiểm soát tăng trưởng tín dụng, đồng nghĩa với việc hy sinh một phần tăng trưởng kinh tế…
Tóm lược thị trường trong nước từ 14/11 - 18/11
Thị trường ngoại tệ: Trong tuần từ 14/11 - 18/11, tỷ giá trung tâm tiếp tục được NHNN điều chỉnh giảm nhẹ qua hầu hết các phiên. Chốt ngày 18/11, tỷ giá trung tâm được niêm yết ở mức 23.675 VND/USD, giảm 08 đồng so với phiên cuối tuần trước đó. NHNN tiếp tục dừng niêm yết tỷ giá mua giao ngay. Tỷ giá bán giao ngay được giữ nguyên mức 24.860 VND/USD 4 phiên đầu tuần, phiên cuối tuần giảm xuống mức 24.850 VND/USD.
Tỷ giá LNH giảm 3 phiên đầu tuần, sau đó tăng nhẹ trở lại. Phiên cuối tuần 18/11, tỷ giá LNH đóng cửa tại 24.807 VND/USD, giảm 13 đồng so với phiên cuối tuần trước đó.
Tỷ giá trên thị trường tự do biến động theo xu hướng giảm. Chốt phiên 18/11, tỷ giá tự do giảm mạnh 235 đồng ở chiều mua vào và 265 đồng ở chiều bán ra, giao dịch tại 24.915 VND/USD và 24.985 VND/USD.
Thị trường tiền tệ LNH: Tuần qua từ 14/11 - 18/11, lãi suất VND LNH tăng ở hầu hết các kỳ hạn từ 1M trở xuống. Chốt ngày 18/11, lãi suất VND LNH giao dịch quanh mức: ON 5,23% (+0,76 đpt so với phiên cuối tuần trước đó); 1W 6,14% (+0,35 đpt); 2W 6,71% (+0,20 đpt); 1M 7,60% (-0,01%).
Lãi suất USD LNH tăng – giảm nhẹ qua các phiên ở tất cả các kỳ hạn trong tuần qua. Chốt tuần 18/11, lãi suất USD LNH đóng cửa ở mức: ON 3,90% (+0,02 đpt); 1W 4,03% (không thay đổi); 2W 4,20% (không thay đổi) và 1M 4,40% (không thay đổi).
Thị trường mở: Trên thị trường mở tuần từ 14/11 - 18/11, NHNN chào thầu 50.000 tỷ đồng trên kênh cầm cố với các kỳ hạn 14 ngày, lãi suất ở mức 6,0%. Có 43.563,11 tỷ đồng trúng thầu; có 58.174,95 tỷ đồng đáo hạn. NHNN chào thầu tín phiếu NHNN kỳ hạn 28 ngày trong 4 phiên cuối tuần, có 39.999,8 tỷ đồng tín phiếu trúng thầu.
Như vậy, NHNN hút ròng 56.611,64 tỷ VND từ thị trường thông qua nghiệp vụ thị trường mở, khối lượng lưu hành trên kênh cầm cố ở mức 66.591,61 tỷ VND, có 39.999,8 tỷ đồng tín phiếu lưu hành trên thị trường.
Thị trường trái phiếu: Ngày 14/11, NHCSXH huy động thành công 1.100/2.500 tỷ đồng TPCPBL gọi thầu (tỷ lệ trúng thầu 44%). Trong đó, kỳ hạn 3 năm huy động được 400/500 tỷ đồng, kỳ hạn 5 năm huy động 700/1.000 tỷ đồng, kỳ hạn 10 năm và 15 năm đấu thầu thất bại. Lãi suất trúng thầu kỳ hạn 3 năm và 5 năm lần lượt tại 4,69%/năm và 4,79%/năm, cùng giảm 0,01% so với phiên trước. Ngày 16/11, KBNN huy động thành công 10.200/13.000 tỷ đồng TPCP gọi thầu (tỷ lệ trúng thầu 78%). Trong đó, kỳ hạn 10 năm và 15 năm huy động được lần lượt 9.000 tỷ đồng và 1.200 tỷ đồng. Lãi suất trúng thầu lần lượt tại 4,6%/năm (+0,2%) và 4,9%/năm (+0,2%).
Tuần vừa qua từ 14/11 – 18/11 và tuần này từ 21/11 – 25/11 không có TPCP đáo hạn. Về kế hoạch đấu thầu trong tuần này, ngày 23/11, KBNN dự kiến gọi thầu 10.000 tỷ đồng TPCP các kỳ hạn 10 năm và 15 năm.
Giá trị giao dịch Outright và Repos trên thị trường thứ cấp tuần qua đạt trung bình 2.588 tỷ đồng/phiên, tăng nhẹ so với mức 1.338 tỷ đồng/phiên của tuần trước đó. Lợi suất TPCP giảm ở hầu hết các kỳ hạn. Chốt phiên 18/11, lợi suất TPCP giao dịch quanh 1 năm 4,73% (-0,05 đpt); 2 năm 4,75% (-0,03 đpt); 3 năm 4,76% (-0,02 đpt); 5 năm 4,79% (-0,08 đpt); 7 năm 4,85% (-0,06 đpt); 10 năm 4,89% (-0,02 đpt); 15 năm 5,02% (không thay đổi); 30 năm 5,33% (+0,02 đpt).
Thị trường chứng khoán: Tuần từ 14/11 - 18/11, sau khi giảm mạnh 2 phiên đầu tuần, thị trường đã hồi phục nhẹ ở 3 phiên cuối. Chốt ngày 18/11, VN-Index đứng ở mức 969,33 điểm, tăng 14,80 điểm (+1,55%) so với cuối tuần trước đó; HNX-Index tăng nhẹ 1,06 điểm (+0,56%) lên 190,87 điểm; UPCom-Index giảm 1,47 điểm (-2,14%) còn 67,15 điểm.
Thanh khoản thị trường tăng tích cực so với tuần trước đó với giá trị giao dịch trung bình trên 15.100 tỷ đồng/phiên. Khối ngoại mua ròng chỉ 12 tỷ đồng trên cả 3 sàn trong tuần qua.
Tin quốc tế
Mỹ ghi nhận một số chỉ báo kinh tế đáng chú ý. Đầu tiên, chỉ số giá sản xuất PPI toàn phần của nước này tăng 0,2% m/m và PPI lõi chỉ đi ngang (0,0% m/m) trong tháng vừa qua, yếu hơn dự báo lần lượt tăng 0,4% và 0,3% m/m. So với cùng kỳ 2021, PPI toàn phần tăng 8,0% trong tháng 10, giảm tốc từ 8,4% của tháng 9 và rời xa mức đỉnh 11,7% của tháng 3. Tiếp theo, doanh số bán lẻ lõi và doanh số bán lẻ toàn phần tại nước này cùng tăng 1,3% m/m trong tháng 10, cao hơn mức tăng 0,5% và 1,0% theo dự báo. Trước đó, trong tháng 9, doanh số bán lẻ lõi chỉ tăng 0,1% m/m và doanh số bán lẻ toàn phần cũng đi ngang so với tháng 8. Tháng vừa qua, sản lượng công nghiệp tại Mỹ giảm nhẹ 0,1% m/m, trái với dự báo tiếp tục tăng 0,1% như kết quả của tháng 9. Liên quan tới thị trường bất động sản, số cấp phép xây dựng và số xây dựng nhà mới tại Mỹ lần lượt đạt 1,53 triệu đơn và 1,43 triệu căn trong tháng 10, cùng giảm so với 1,56 triệu đơn và 1,49 triệu căn của tháng 9, song tích cực hơn 1,51 triệu đơn và 1,41 triệu căn theo dự báo. Doanh số bán nhà cũ trong tháng 10 chỉ đạt 4,43 triệu căn, giảm khá nhiều so 4,71 triệu căn của tháng 9. Cuối cùng, ở thị trường lao động, số đơn xin trợ cấp thất nghiệp tuần kết thúc ngày 12/11 ở mức 222 nghìn đơn, giảm nhẹ từ 226 nghìn của tuần trước đó và trái với dự báo tăng nhẹ lên 228 nghìn.
Eurozone đón một số thông tin kinh tế quan trọng, lạm phát chính thức vượt 10%. Cụ thể, GDP của khối này tăng 0,2% q/q trong quý III theo báo cáo sơ bộ, sau khi tăng 0,6% của quý trước đó và khớp với dự báo. So với cung kỳ 2021, GDP Eurozone tăng 0,8%. Trong tháng 9, sản lượng công nghiệp tại Eurozone tăng 0,9% m/m, nối tiếp đà tăng 2,0% của tháng 8 và cao hơn nhiều so với mức tăng chỉ 0,1% theo dự báo. Về lạm phát, chỉ số giá tiêu dùng CPI toàn phần của Eurozone chính thức tăng 10,6% y/y trong tháng 10, điều chỉnh xuống so với mức 10,7% theo dữ liệu sơ bộ, song vẫn cao hơn mức 9,9% của tháng 9 là mức cao nhất trong 23 năm trở lại đây. Mặc dù vậy, theo khảo sát của ZEW trong tháng 11, chỉ số niềm tin kinh tế tại Eurozone hồi phục lên mức -38,7 điểm từ mức -59,7 điểm của tháng 10, mạnh hơn mức -52,0 điểm theo dự báo.