Tin trong nước:
Thị trường ngoại tệ: Phiên 12/10, NHNN niêm yết tỷ giá trung tâm ở mức 23.480 VND/USD, tăng mạnh 29 đồng so với phiên trước đó. NHNN duy trì không niêm yết tỷ giá mua giao ngay, tỷ giá bán giao ngay được niêm yết không đổi ở mức 23.925 VND/USD. Trên thị trường LNH, tỷ giá chốt phiên với mức 23.965 VND/USD, tăng 29 đồng so với phiên 11/10. Tỷ giá trên thị trường tự do tăng 110 đồng ở chiều mua vào và và 90 đồng ở chiều bán ra, giao dịch tại 24.270 VND/USD và 24.350 VND/USD.
Thị trường tiền tệ LNH: Ngày 12/10, lãi suất chào bình quân LNH VND tiếp tục giảm 0,06 – 0,32 đpt ở tất cả các kỳ hạn từ 1M trở xuống so với phiên trước đó, cụ thể: ON 6,62%; 1W 7,05%; 2W 7,22% và 1M 7,63%. Lãi suất chào bình quân LNH USD giảm 0,02 đpt ở các kỳ hạn ON và 2W trong khi đi ngang ở kỳ hạn 1W và tăng 0,01 đpt ở kỳ hạn 1M; giao dịch tại: ON 3,13%; 1W 3,30%; 2W 3,43%, 1M 3,58%. Lợi suất TPCP trên thị trường thứ cấp tăng ở tất cả các kỳ hạn, cụ thể: 3Y 4,75%; 5Y 4,78%; 7Y 4,85%; 10Y 4,93%; 15Y 5,0%.
Nghiệp vụ thị trường mở: Phiên hôm qua, NHNN chào thầu 15.000 tỷ đồng trên kênh cầm cố kỳ hạn 14 ngày và 20.000 tỷ đồng kỳ hạn 28 ngày đều với lãi suất 5,0%. Có 26.666,51 tỷ đồng trúng thầu ở cả 2 kỳ hạn; có 19.999,99 tỷ đồng đáo hạn. NHNN không chào thầu tín phiếu NHNN, có 14.999 tỷ đồng đáo hạn hôm qua. Như vậy, NHNN bơm ròng 21.665,52 tỷ VND ra thị trường qua kênh thị trường mở, khối lượng lưu hành trên kênh cầm cố ở mức 81.126,08 tỷ VND, tín phiếu ở mức 23.399,9 tỷ VND.
Thị trường TPCP: Ngày 12/10, KBNN huy động thành công 5.075/6.500 tỷ đồng TPCP gọi thầu (tỷ lệ trúng thầu 78%). Trong đó, kỳ hạn 10 năm huy động được 2.500/3.000 tỷ đồng, kỳ hạn 15 năm huy động được 2.575/3.000 tỷ đồng, kỳ hạn 20 năm đấu thầu thất bại. Lãi suất trúng thầu kỳ hạn 10 năm và 15 năm lần lượt tại 3,5%/năm và 3,8%/năm, đều tăng 0,2% so với phiên trước.
Thị trường chứng khoán: Hôm qua, dòng tiền chủ động xuất hiện ngay từ khi mở cửa phiên sáng, kéo giá cổ phiếu đồng loạt tăng trong nhóm bue-chips, dẫn dắt là nhóm tài chính bao gồm ngân hàng, chứng khoán. Chốt phiên, VN-Index tăng 28,61 điểm (+2,84%) lên mức 1.034,81 điểm; HNX-Index cộng 4,65 điểm (+2,13%) đạt 223,43 điểm; UPCoM-Index tăng 0,99 điểm (+1,27%) lên 78,94 điểm. Thanh khoản thị trường giảm nhẹ với giá trị giao dịch gần 12.600 tỷ VND. Khối ngoại mua ròng mạnh gần 1.300 tỷ đồng trên cả 3 sàn.
Ngân hàng Standard Chartered mới đây đã nâng dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam từ 6,7% lên 7,5% cho năm 2022 và từ 7% lên 7,2% cho năm 2023, sau khi mức tăng trưởng trong quý III vừa qua đạt 13,7%. Ngân hàng này cũng hạ dự báo lạm phát của Việt Nam cả năm 2022 từ 4,2% xuống 3,3%, dự báo lạm phát sẽ tăng dần trong năm sau, mức lạm phát trung bình của cả năm 2023 sẽ đạt 5,5%. Standard Chartered dự báo tỷ giá USD/VND sẽ đạt 24.200 vào cuối năm 2022 và 24.000 vào cuối quý I/2023, sau đó giảm về mức 23.400 vào cuối năm 2023.
Tin quốc tế:
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ Fed công bố biên bản cuộc họp tháng 9. Trong biên bản lần này, Fed cho rằng thị trường lao động vẫn đang phát triển mạnh mẽ. Về lạm phát, chỉ số giá cả tiêu dùng cá nhân (PCE) liên tục leo thang trong những tháng gần đây, với mức 6,3% y/y ghi nhận tại tháng 7. PCE lõi (không bao gồm giá nhiên liệu và giá thực phẩm) cũng tăng tới 4,6% y/y. Bên cạnh đó, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) toàn phần cũng tăng 8,3% và CPI lõi tăng 6,3% y/y. Theo nhận định của Fed, lạm phát được kỳ vọng sẽ hạ nhiệt trong tương lai gần, tiếp tục chậm lại một cách ổn định trong dài hạn. Nhiều thành viên Fed nhấn mạnh việc hành động không đủ để kiềm chế lạm phát có thể gây ra nhiều tổn thất hơn so với việc hành động dư thừa. Theo đó, Fed quyết định tăng LSCS thêm 75 điểm cơ bản, từ khoảng 2,25% - 2,50% lên 3,0% - 3,25%. Fed cam kết hướng tới mục tiêu toàn dụng nhân công và lạm phát ở mức mục tiêu 2,0% trong dài hạn. Bên cạnh đó, Fed sẽ tiếp tục giảm nắm giữ TPCP và các tài sản khác trong bảng cân đối của cơ quan này. Sau khi biên bản được công bố, công cụ của CME dự báo 82% khả năng Fed sẽ tăng LSCS thêm 75 đcb trong cuộc họp ngày 02/11, và chỉ 18% khả năng tăng 50 đcb.
Liên quan tới thông tin kinh tế Mỹ, chỉ số giá sản xuất PPI toàn phần và PPI lõi của nước này lần lượt tăng 0,4% và 0,3% m/m trong tháng 9, cùng cao hơn so với mức tăng 0,2% và 0,3% theo dự báo. So với cùng kỳ năm 2021, mức tăng lần lượt là 8,5% và 5,6% y/y.
GDP của Anh giảm 0,3% m/m trong tháng 8 sau khi tăng nhẹ 0,1% ở tháng trước đó, trái với dự báo đi ngang (0,0% m/m) của các chuyên gia. Cũng trong tháng 8, sản lượng xây dựng của Anh tăng 0,4% m/m, nối tiếp đà tăng 0,1% của tháng 7 và gần khớp với mức tăng 0,5% theo kỳ vọng. Trái lại, sản lượng công nghiệp tại Anh tiếp tục suy giảm mạnh 1,8% m/m, nối tiếp đà giảm 1,1% của tháng 7 và tiêu cực hơn nhiều so với dự báo chỉ giảm 0,1%.