Tin trong nước:
Thị trường ngoại tệ: Phiên 18/01, NHNN niêm yết tỷ giá trung tâm ở mức 23.606 VND/USD, tăng tiếp 03 đồng so với phiên trước đó. Tỷ giá bán giao ngay được NHNN duy trì niêm yết ở mức 24.780 VND/USD; tỷ giá mua giao ngay ở mức 23.450 VND/USD. Trên thị trường LNH, tỷ giá chốt phiên với mức 23.443 VND/USD, tăng 09 đồng so với phiên 17/01. Tỷ giá trên thị trường tự do giảm 10 đồng ở chiều mua vào và 30 đồng ở chiều bán ra, giao dịch tại 23.370 VND/USD và 23.470 VND/USD.
Thị trường tiền tệ LNH: Ngày 18/01, lãi suất chào bình quân LNH VND giảm 0,06 - 0,22 đpt ở các kỳ hạn ON và 2W trong khi đi ngang ở kỳ hạn 1W và tăng 0,08 đpt ở kỳ hạn 1M so với phiên trước đó, cụ thể: ON 6,06%; 1W 7,0%; 2W 7,44% và 1M 8,08%. Lãi suất chào bình quân LNH USD giảm 0,01 – 0,06 đpt ở tất cả các kỳ hạn từ 1M trở xuống; giao dịch tại: ON 4,29%; 1W 4,40%; 2W 4,50%, 1M 4,70%. Lợi suất TPCP trên thị trường thứ cấp giảm mạnh ở tất cả các kỳ hạn, cụ thể: 3Y 4,40%; 5Y 4,42%; 7Y 4,50%; 10Y 4,56%; 15Y 4,68%.
Nghiệp vụ thị trường mở: Phiên hôm qua, NHNN chào thầu 15.000 tỷ đồng trên kênh cầm cố với kỳ hạn 14 ngày, lãi suất ở mức 6,0%. Có 12,326,4 tỷ đồng trúng thầu; có 5.725,41 tỷ đồng đáo hạn. NHNN chào thầu tín phiếu NHNN với kỳ hạn 14 ngày. Có 25.000 tỷ đồng trúng thầu với lãi suất hạ xuống mức 5,7%, có 24.500 tỷ đồng tín phiếu đáo hạn. Như vậy, NHNN bơm ròng 6.100,99 tỷ đồng ra thị trường qua kênh thị trường mở, khối lượng lưu hành trên kênh cầm cố ở mức 98.139,15 tỷ đồng, khối lượng tín phiếu lưu hành ở mức 96.999,9 tỷ đồng.
Thị trường trái phiếu: Ngày 18/01, KBNN huy động 12.500 tỷ đồng, khối lượng trúng thầu là 12.000 tỷ đồng (đạt 95%). Trong đó, kỳ hạn 10 năm và 15 năm đều huy động được toàn bộ 6.000 tỷ mỗi loại. Riêng kỳ hạn 7 năm không có khối lượng trúng thầu. Lãi suất trúng thầu hai kỳ hạn 10 năm và 15 năm lần lượt tại 4,36%/năm và 4,56%/năm (lần lượt giảm 0,09 đpt và 0,11 đpt so với phiên trước).
Thị trường chứng khoán: Hôm qua, thị trường chứng khoán tiếp đà diễn biến tích cực trong những phiên giao dịch cuối cùng trước Tết âm lịch. Chốt phiên, VN-Index tăng 9,99 điểm (+0,92%) lên mức 1.098,28 điểm; HNX-Index thêm 2,58 điểm (+1,20%) đạt 217,73 điểm; UPCoM-Index nhích 0,57 điểm (+0,78%) lên 73,54 điểm. Thanh khoản thị trường giảm nhẹ so với phiên trước đó với giá trị giao dịch gần 11.900 tỷ VND. Khối ngoại tiếp tục mua ròng hơn 722 tỷ đồng trên cả 3 sàn.
Theo Tổng cục Hải quan, trong 15 ngày đầu tháng 1/2023, kim ngạch xuất khẩu cả nước ước đạt 14,5 tỷ USD, kim ngạch nhập khẩu đạt 13,76 tỷ, xuất siêu ở mức 0,74 tỷ USD. Trong giai đoạn này, doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài XK 10,8 tỷ USD, chiếm gần 74,5% kim ngạch XK cả nước; NK 9,38 tỷ USD, chiếm 68% kim ngạch NK cả nước.
Tin quốc tế:
Chỉ số giá sản xuất PPI toàn phần tại Mỹ tăng nhẹ 0,1% m/m trong tháng 12 sau khi tăng 0,2% ở tháng trước đó, khớp với dự báo. Tuy nhiên, PPI lõi lại giảm khá mạnh 0,5% m/m trong tháng vừa qua, sau khi tăng 0,2% trong tháng 11. Như vậy, trong suốt năm 2022, PPI toàn phần và PPI lõi tại Mỹ lần lượt tăng 6,2% và 4,6%; thấp hơn mức tăng 10,0% và 7,0% của năm 2021. Tiếp theo doanh số bán lẻ toàn phần và doanh số bán lẻ lõi tại Mỹ cùng giảm 1,1% m/m trong tháng cuối năm 2022, sau khi giảm lần lượt 0,6% và 1,0% ở tháng 11.
Văn phòng Thống kê Quốc gia Anh ONS cho biết chỉ số giá tiêu dùng CPI tại nước này tăng 10,5% y/y trong tháng 12, không hạ nhiệt nhiều so với mức 10,7% của tháng 11 và khớp với dự báo của các chuyên gia. CPI lõi tại Anh cũng tăng 6,3% y/y trong tháng vừa qua, không thay đổi so với tháng trước đó.
Trong cuộc họp hôm qua, NHTW Nhật Bản BOJ dự báo lạm phát tại nước này trong năm tài khóa 2022 ở mức 3,0%; cao hơn so với mức lạm phát mục tiêu 2,0% trong dài hạn của chính cơ quan này. Mặc dù vậy, BOJ quyết định duy trì LSCS ở mức -0,1%; không thay đổi so với kỳ họp trước, và đồng thời sẽ kiểm soát lãi suất TPCP ở quanh 0%. Thị trường nhận định nguyên nhân chính khiến BOJ không thay đổi CSTT do mức tăng CPI của nước này chủ yếu đến từ chi phí đẩy và có thể không bền vững. BOJ cũng đưa ra dự báo CPI trong năm tài khóa 2023 chỉ tăng 1,6%; giảm tốc rất nhiều so với tình hình năm 2022.