Tổng hợp Kinh tế - Tài chính tuần 22/04 - 26/04/2024

08:06 02/05/2024

Tổng quan:

CPI tháng 4 tăng chủ yếu do tác động của giá xăng dầu. Các chuyên gia nhận định, khả năng lạm phát năm 2024 sẽ cao hơn năm 2023, nhưng vẫn trong tầm kiểm soát.

Theo số liệu công bố của Tổng cục Thống kê ngày 29/04, giá xăng dầu tăng theo giá nhiên liệu thế giới là nguyên nhân chính làm chỉ số giá tiêu dùng CPI tháng 4/2024 tăng 0,07% so với tháng trước. Như vậy, so với tháng 12/2023 CPI tháng 4 tăng 1,19% và so với cùng kỳ năm trước tăng 4,4%. Bình quân 4 tháng đầu năm 2024, CPI tăng 3,93% so với cùng kỳ năm trước.

Trong mức tăng 0,07% của CPI tháng 4/2024 so với tháng trước, có 8 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng, 3 nhóm hàng có chỉ số giá giảm. Trong các nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng, nhóm giao thông tăng cao nhất với 1,95% (làm CPI chung tăng 0,19 đpt). Nhóm này có mức tăng cao chủ yếu do giá xăng trong nước tăng 4,78%; giá dầu diezen tăng 2,01% do ảnh hưởng của các đợt điều chỉnh giá trong tháng. Bên cạnh đó, giá vận tải hành khách bằng đường hàng không tăng 10,42%; đường thủy tăng 0,06%; đường bộ tăng 0,13%; xe buýt tăng 0,21% và taxi tăng 0,56% do giá xăng dầu tăng. Nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng cao thứ 2, tăng 0,92% do thời tiết giao mùa, các loại vi rút gây bệnh sinh sôi, số ca viêm phổi, thủy đậu, tay chân miệng tăng nhanh nên người dân có nhu cầu mua các loại thuốc tăng cường hệ miễn dịch. Trong đó, giá nhóm thuốc giảm đau, hạ sốt, chống viêm tăng 0,19%; nhóm thuốc chống dị ứng và các trường hợp quá mẫn cảm tăng 0,13%; nhóm thuốc tim mạch và một số mặt hàng khác tăng 0,07%. Nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,27% chủ yếu do tăng giá các mặt hàng đồ dùng cá nhân (tăng 0,6%). Trong tháng 4, yếu tố đáng quan tâm, trong 3 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá giảm, nhóm giáo dục giảm tới 2,93% so với tháng trước, góp phần giảm CPI chung giảm 0,18 đpt, trong đó dịch vụ giáo dục giảm 3,32%. Nguyên nhân chủ yếu do ngày 31/12/2023, Chính phủ ban hành Nghị định số 97/2023/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 81/2021/NĐ-CP ngày 27/8/2021 của Chính phủ, trong đó yêu cầu các địa phương giữ ổn định mức thu học phí từ năm học 2023-2024 bằng mức thu học phí của năm học 2021-2022 đối với giáo dục mầm mon, giáo dục phổ thông công lập, theo đó một số trường học đã điều chỉnh giảm mức học phí sau khi đã thu theo Nghị định số 81/2021/NĐ-CP.

Cũng theo số liệu vừa được công bố, lạm phát cơ bản tháng 4/2024 tăng 0,17% so với tháng trước và tăng 2,79% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân 4 tháng đầu năm 2024, lạm phát cơ bản tăng 2,81% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn mức CPI bình quân chung (tăng 3,93%), chủ yếu do giá lương thực, xăng dầu và giá dịch vụ y tế là yếu tố tác động tăng CPI nhưng thuộc nhóm hàng được loại trừ trong danh mục tính toán lạm phát cơ bản.

Nhận định về lạm phát cả năm 2024, hầu hết các tổ chức và chuyên gia đều cho rằng, nhiều khả năng lạm phát năm 2024 sẽ cao hơn năm 2023, nhưng vẫn nằm trong tầm kiểm soát và mục tiêu mà Quốc hội, Chính phủ đặt ra là CPI bình quân trong khoảng 4 - 4,5%. Tuy nhiên, con số thống kê lạm phát 4 tháng đầu năm cho thấy, rủi ro lạm phát vẫn hiện hữu. Điều đáng lo ngại nhất trong điều hành giá năm nay là giá một số mặt hàng nguyên vật liệu, hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng thiết yếu dự báo có thể biến động tăng như: giá xăng dầu, giá một số vật liệu xây dựng, giá lương thực. Cùng với đó, việc thực hiện lộ trình giá thị trường, tính đúng, tính đủ chi phí trong giá các hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá tiếp tục là vấn đề cần xem xét trong năm 2024; lương tối thiểu vùng tăng 6% từ ngày 01/07/2024 sẽ khiến CPI tăng thêm khoảng 0,03 đpt. Tuy nhiên, vẫn có một số yếu tố giúp giảm áp lực lên mặt bằng giá như: Việt Nam có nguồn lương thực, thực phẩm dồi dào, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Một số chính sách hỗ trợ về thuế trong năm 2024 vẫn tiếp tục được thực hiện góp phần giảm chi phí đầu vào. Bên cạnh đó, giá cả và lạm phát toàn cầu đang hạ nhiệt; cung tiền trong nước tăng nhưng vòng quay tiền còn chậm, dự báo khoảng 0,7-0,9 lần…, cũng là những yếu tố hỗ trợ kiềm chế lạm phát.

Tại cuộc họp Ban Chỉ đạo điều hành giá xem xét công tác quản lý, điều hành giá quý I và định hướng công tác điều hành giá những tháng còn lại của năm 2024 diễn ra ngày 24/04, Bộ Tài chính cập nhật 3 kịch bản điều hành giá, tương ứng dự báo CPI bình quân tăng khoảng 3,64% so với năm 2023 (kịch bản 1); tăng 4,05% (kịch bản 2) và tăng khoảng 4,5% (kịch bản 3); Tổng cục Thống kê dự báo CPI bình quân trong khoảng 3,5% - 4,5% (3 kịch bản: 3,5%, 4,0% và 4,5%); NHNN dự báo CPI bình quân năm 2024 tăng trong khoảng 4 ± 0,5%. 

Tóm lược thị trường trong nước từ 22/04 - 26/04

Thị trường ngoại tệ: Trong tuần từ 22/04 - 26/04, tỷ giá trung tâm tiếp tục được NHNN điều chỉnh tăng 2 phiên đầu tuần rồi giảm trở lại. Chốt ngày 26/04, tỷ giá trung tâm được niêm yết ở mức 24.246 VND/USD, giảm 18 đồng so với phiên cuối tuần trước đó. NHNN tiếp tục niêm yết tỷ giá mua giao ngay ở mức 23.400 VND/USD. Tỷ giá bán giao ngay được niêm yết ở mức 25.450 VND/USD qua tất cả các phiên.

Tỷ giá LNH giảm trở lại trong tuần từ 22/04 - 26/04. Kết thúc phiên 26/04, tỷ giá LNH đóng cửa tại 25.334 VND/USD, giảm 116 đồng so với phiên cuối tuần trước đó.

Tỷ giá trên thị trường tự do cũng giảm qua các phiên trong tuần qua. Chốt phiên 26/04, tỷ giá tự do giảm 150 đồng ở chiều mua vào và 130 đồng ở chiều bán ra so với phiên cuối tuần trước đó, giao dịch tại 25.530 VND/USD và 25.630 VND/USD.

Thị trường tiền tệ LNH: Trong tuần từ 22/04 - 26/04, lãi suất VND LNH biến động theo xu hướng tăng ở tất cả các kỳ hạn. Chốt ngày 26/04, lãi suất VND LNH giao dịch quanh mức: ON 4,78% (+0,82 đpt); 1W 4,82% (+0,68 đpt); 2W 4,92% (+0,56 đpt); 1M 4,95% (+0,37 đpt).

Lãi suất USD LNH duy trì biến động tăng – giảm nhẹ qua các phiên ở tất cả các kỳ hạn. Phiên 26/04, lãi suất USD LNH đóng cửa ở mức: ON 5,24% (-0,01 đpt); 1W 5,31% (-0,02 đpt); 2W 5,38% (-0,02 đpt) và 1M 5,40% (-0,01 đpt).

Thị trường mở: Trên thị trường mở tuần qua từ 22/04 - 26/04, ở kênh cầm cố, NHNN chào thầu ở kỳ hạn 14 ngày với khối lượng là 122.000 tỷ VND, lãi suất phiên đầu tuần ở mức 4,0%, các phiên sau tăng lên mức 4,25%. Có 117.805,1 tỷ đồng trúng thầu và 32.865,1 tỷ đồng đáo hạn trong tuần qua.

NHNN chào thầu tín phiếu NHNN kỳ hạn 28 ngày, đấu thầu lãi suất ở tất cả các phiên. Hết tuần, có tổng cộng 11.400 tỷ đồng trúng thầu, lãi suất tăng từ 3,73%/năm lên 3,75% xong chốt tuần ở mức 3,5%; có 26.500 tỷ đồng đáo hạn trong tuần qua. 

Như vậy, NHNN bơm ròng 100.040 tỷ VND ra thị trường trong tuần qua bằng kênh thị trường mở, khối lượng tín phiếu NHNN lưu hành giảm xuống mức 51.350 tỷ đồng, khối lượng lưu hành trên kênh cầm cố ở mức 117.805,1 tỷ đồng.      

Thị trường trái phiếu: Ngày 24/04, KBNN huy động thành công 5.596 tỷ đồng/12.000 tỷ đồng TPCP gọi thầu (tỷ lệ trúng thầu 47%). Trong đó, kỳ hạn 5Y và 20Y huy động được toàn bộ khối lượng gọi thầu, lần lượt là 3.000 tỷ đồng và 2.000 tỷ đồng. Kỳ hạn 10Y huy động được 236 tỷ đồng/4.000 tỷ đồng gọi thầu, kỳ hạn 15Y huy động được 360 tỷ đồng/3.000 tỷ đồng gọi thầu. Lãi suất trúng thầu kỳ hạn 5Y là 1,61% (+0,11 đpt so với phiên đấu thầu trước), 10Y là 2,50% (+0,05 đpt), 15Y là 2,68% (+0,03 đpt), 20Y là 2,80% (+0,15 đpt).

Trong tuần này, ngày 02/05, KBNN chào thầu 10.000 tỷ đồng TPCP, trong đó kỳ hạn 5Y và 15Y chào thầu 3.000 tỷ đồng/kỳ hạn, 7Y chào thầu 500 tỷ đồng, 10Y chào thầu 2.500 tỷ đồng, kỳ hạn 30Y chào thầu 1.000 tỷ đồng.

Giá trị giao dịch Outright và Repos trên thị trường thứ cấp trong tuần qua đạt trung bình 10.583 tỷ đồng/phiên, tăng so với mức 8.953 tỷ đồng/phiên của tuần trước đó. Lợi suất TPCP trong tuần qua có sự phân hóa giữa các kỳ hạn. Chốt phiên 26/04, lợi suất TPCP giao dịch quanh 1Y 1,85% (+0,01 đpt so với phiên trước đó); 2Y 1,87% (+0,02 đpt); 3Y 1,90% (+0,02 đpt); 5Y 2,09% (-0,04 đpt); 7Y 2,31% (-0,04 đpt); 10Y 2,79% (-0,02 đpt); 15Y 3,0% (-0,03 đpt); 30Y 3,12% (không đổi).

Thị trường chứng khoán: Trong tuần từ 22/04 - 26/04, thị trường chứng khoán hồi phục trở lại. Chốt phiên 26/04, VN-Index đứng ở mức 1.209,52 điểm, tăng mạnh 34,67 điểm (+2,95%) so với cuối tuần trước đó; HNX-Index thêm 6,02 điểm (+2,73%) lên mức 226,82 điểm; UPCom-Index tăng 1,60 điểm (+1,84%) đạt 88,76 điểm.

Thanh khoản thị trường sụt giảm, trung bình đạt gần 17.900 tỷ đồng/phiên, giảm mạnh từ mức 29.200 tỷ đồng/phiên của tuần trước đó. Khối ngoại tiếp tục bán ròng mạnh hơn 1.230 tỷ đồng trên cả 3 sàn.

Tin quốc tế

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ Fed không thay đổi LSCS trong cuộc họp tháng 5, bên cạnh đó nước Mỹ ghi nhận nhiều chỉ báo kinh tế quan trọng trong những ngày qua. Tại cuộc họp kết thúc ngày hôm qua 01/05, Ủy ban Thị trường Mở liên bang FOMC (thuộc Fed) nhận định lạm phát đã giảm trong một năm vừa qua nhưng vẫn đang ở mức cao. FOMC vẫn cho thấy quyết tâm đạt được toàn dụng nhân công và lạm phát mục tiêu 2,0% trong dài hạn. Để đạt được mục tiêu này, FOMC quyết định không thay đổi LSCS đang ở mức 5,25 – 5,50%, sẽ đánh giá cẩn thận các dữ liệu sắp tới để đưa ra các quyết định về LSCS trong tương lai. FOMC không cho rằng giảm LSCS là phù hợp cho tới khi có niềm tin vững chắc hơn rằng lạm phát đang giảm về mức 2,0% một cách bền vững. Bên cạnh đó, bắt đầu từ tháng 6 năm nay, FOMC sẽ giảm tốc đối với quá trình thu hẹp bảng cân đối kế toán, từ thu hẹp 65 tỷ USD/tháng xuống còn 25 tỷ USD/tháng. Liên quan đến kinh tế Mỹ, GDP tại quốc gia này chỉ tăng 1,6% y/y trong quý đầu năm 2024, giảm tốc so với mức 3,4% của quý trước đó và đồng thời thấp hơn mức tăng 2,5% theo dự báo. Về lạm phát, chỉ số giá tiêu dùng cá nhân PCE lõi tại Mỹ tăng 0,3% m/m trong tháng 3, bằng với mức tăng của tháng 2 và đồng thời khớp với dự báo. So với cùng kỳ năm 2023, PCE lõi tăng 2,8% y/y trong tháng 3, không thay đổi so với kết quả ghi nhận ở tháng 2. Mặc dù vậy, PCE toàn phần trong tháng 3 tăng 2,7%, cao hơn so với mức tăng 2,5% của tháng 2. Tại thị trường lao động, nước Mỹ tạo ra 8,49 triệu cơ hội việc làm trong tháng 3, thấp hơn mức 8,81 triệu của tháng 2 và đồng thời thấp hơn mức 8,68 triệu theo dự báo. Sang tháng 4, quốc gia này tạo ra 192 nghìn việc làm phi nông nghiệp mới (theo ADP), thấp hơn mức 208 nghìn của tháng 3 nhưng tích cực hơn kỳ vọng ở mức 179 nghìn. Tiếp theo, ISM khảo sát cho biết chỉ số PMI lĩnh vực sản xuất tại nước Mỹ chỉ đạt 49,2% trong tháng 4, giảm nhẹ từ 50,3% của tháng 3 và đồng thời thấp hơn mức 50% theo dự báo. Cuối cùng, Conference Board khảo sát được chỉ số niềm tin tiêu dùng tại Mỹ ở mức 97,0 điểm trong tháng 4, giảm xuống từ 103,1 điểm của tháng 3, trái với kỳ vọng tăng nhẹ lên 104,0 điểm.

NHTW Nhật Bản BOJ cũng không thay đổi LSCS trong cuộc họp cuối tháng 4. Tuần trước, ngày 26/04, BOJ dự báo rằng lạm phát tại Nhật Bản sẽ ở quanh mức mục tiêu 2,0% vào năm tài khóa 2026. Cơ quan này quyết định duy trì LSCS ở mức 0,1%, không thay đổi so với trước. Cách đây hơn một tháng, ngày 19/03, BOJ đã quyết định nâng LSCS từ mức -0,1% lên 0,1%, chấm dứt chính sách LS âm kể từ 2016. Thị trường nhận định BOJ khó có thể tiếp tục nâng LSCS mạnh trong năm 2024, bất chấp đồng JPY đang mất giá tương đối lớn so với USD và nhiều đồng tiền mạnh khác. Nguyên nhân chính do nền kinh tế nước này chưa thực sự phục hồi và ổn định. Liên quan đến kinh tế Nhật Bản, chỉ số lạm phát CPI lõi tại quốc gia này tăng 2,2% y/y trong tháng 3, thấp hơn một chút so với mức tăng 2,3% ghi nhận ở tháng trước đó. Tại thị trường lao động, tỷ lệ thất nghiệp tại Nhật Bản ở mức 2,6% trong tháng 3, không thay đổi so với tháng 2, trái với kỳ vọng giảm nhẹ xuống còn 2,5%. Tiếp theo, sản lượng công nghiệp Nhật Bản tăng 3,8% m/m trong tháng 3 sau khi giảm 0,6% ở tháng trước đó, vượt qua mức tăng 3,4% theo dự báo. So với cùng kỳ năm 2023, mức sản lượng tháng 3 vẫn cho thấy sự sụt giảm 6,7%. Cuối cùng, doanh số bán lẻ tại Nhật Bản tăng 1,2% y/y trong tháng 3, giảm tốc khá mạnh so với mức 4,7% của tháng 2, đồng thời cũng thấp hơn mức tăng 2,5% theo dự báo.

 

Đọc thêm