Tổng quan:
Với chỉ số giá tiêu dùng CPI tháng 10 tăng 0,15% so với tháng trước, bình quân 10 tháng CPI mới tăng 2,89%, lạm phát cả năm được dự báo sẽ được kiểm soát dưới 4%.
Theo Tổng cục Thống kê, CPI tháng 10/2022 tăng 0,15% so với tháng trước, tăng 4,16% so với tháng 12/2021 và tăng 4,3% so với cùng kỳ năm trước. Việc CPI tháng 10 tăng nhẹ, theo Tổng cục Thống kê chủ yếu là do giá thuê nhà tăng trở lại do nhu cầu của người dân tăng cao, một số địa phương tăng học phí năm học mới 2022-2023. Trong 11 nhóm hàng hóa dịch vụ tiêu dùng chính, có 9 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng và 2 nhóm hàng có chỉ số giá giảm so với tháng trước. Trong nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng, nhóm giáo dục tăng cao nhất với 2,35%, trong đó chỉ số giá dịch vụ giáo dục tăng 2,64% so với tháng trước. Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,69%, do sinh viên bắt đầu đi học nên nhu cầu thuê nhà tăng cao làm giá tiền thuê nhà ở tăng 8,85%. Nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,34%, do giá nguyên liệu sản xuất đồ uống và tỷ giá đô la Mỹ tăng cao. Nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,2%, do giá nguyên phụ liệu sản xuất, chi phí nhân công và nhu cầu mua sắm quần áo mùa đông tăng. Còn Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,13%. Nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,12%. Nhóm thuốc và dịch vụ y tế và Nhóm văn hóa, giải trí và du lịch cùng tăng 0,06%. Nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,23% tập trung chủ yếu ở mặt hàng đồ trang sức tăng 0,46%. Trong khi đó, có hai nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giảm. Trong đó, Nhóm giao thông giảm tới 2,17%, chủ yếu do ảnh hưởng của các đợt điều chỉnh giá xăng dầu trong nước vào ngày 03/10, 11/10; 21/10/2022 và còn tiếp tục chịu ảnh hưởng từ các đợt điều chỉnh giảm trong tháng 9/2022. Số liệu thống kê cho biết, lũy kế từ đầu năm đến nay, giá xăng dầu đã qua 27 kỳ điều hành giá. Trong đó, xăng có 14 lần tăng, 12 lần giảm và 1 lần giữ ổn định; giá dầu diezen 0,05S có 16 lần tăng, 11 lần giảm; giá dầu hỏa có 15 lần tăng, 11 lần giảm, 01 lần giữ ổn định; giá dầu mazut có 10 lần tăng, 11 lần giảm và 06 lần giữ ổn định. Sự tăng - giảm của giá xăng dầu kể từ đầu năm tới nay đã tác động khá lớn đến mục tiêu kiểm soát lạm phát của Việt Nam. Hiện tại, giá xăng đã giảm khá nhiều so với thời điểm đỉnh. Nhờ vậy, đà tăng chỉ số giá tiêu dùng đã được kiểm soát. Tính chung 10 tháng đầu năm 2022, CPI bình quân tăng 2,89% so với bình quân cùng kỳ năm 2021. Như vậy, lạm phát đang được kiểm soát tốt và với đà này, cả năm, sẽ ở mức dưới 4%.
Số liệu thống kê cho thấy, lạm phát cơ bản tháng 10/2022 tăng 0,45% so với tháng trước, tăng 4,47% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân 10 tháng năm 2022, lạm phát cơ bản tăng 2,14% so với cùng kỳ năm 2021, thấp hơn mức CPI bình quân chung (tăng 2,89%). Điều này phản ánh biến động giá tiêu dùng chủ yếu do giá lương thực và giá xăng dầu.
Các cơ quan quản lý cũng như các chuyên gia đều nhận định rằng, CPI cả năm 2022 có thể đạt dưới mức mục tiêu 4%, tuy nhiên, còn nhiều yếu tố gây áp lực lên mặt bằng giá vào cuối năm. Các yếu tố gây áp lực lên mặt bằng giá như giá dịch vụ khám - chữa bệnh theo yêu cầu, giá lương thực, thực phẩm, đồ uống, may mặc cũng thường tăng vào giai đoạn chuyển mùa và thời điểm lễ Tết cuối năm, đặc biệt năm 2023 Tết Nguyên đán sẽ đến sớm vào tháng 1/2023. Theo Bộ Tài chính, giá thịt lợn có thể biến động tăng các tháng cuối năm nếu nguồn cung không được đảm bảo; nhóm văn hóa, giải trí, du lịch tiếp tục hồi phục khi dịch COVID-19 được kiểm soát. Bên cạnh đó, thiên tai và dịch bệnh có thể gây ảnh hưởng đến giá lương thực và thực phẩm cục bộ tại một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương bị ảnh hưởng; đồng USD tăng giá làm tăng chi phí nhập khẩu nguyên vật liệu, từ đó gây sức ép lên mặt bằng giá trong nước. Ngoài ra, việc tập trung triển khai đẩy mạnh giải ngân đầu tư công vào cuối năm, nhất là việc triển khai các công trình kinh tế trọng điểm có thể làm tăng nhu cầu, nhất là đối với các mặt hàng vật tư xây dựng, từ đó có thể làm giá cả biến động nếu nguồn cung không đáp ứng kịp thời. Tuy nhiên, ở chiều ngược lại, vẫn sẽ có những yếu tố giảm áp lực lên mặt bằng giá. Theo Bộ Tài chính đó là các yếu tố như nguồn cung lương thực, thực phẩm dồi dào; đây là mặt hàng chiếm quyền số lớn trong rổ hàng hóa tính CPI, hiện nước ta vẫn chủ động được trong sản xuất đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Cùng với đó, giá một số mặt hàng do Nhà nước quản lý dự kiến giữ ổn định đến hết năm 2022: giá điện bình quân, giá dịch vụ khám chữa bệnh theo lộ trình giá dịch vụ sự nghiệp công của Bộ Y tế; giá dịch vụ giáo dục dự kiến ổn định tại tất cả cấp học theo phương án của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Các chính sách tài khóa đang và dự kiến triển khai cũng góp phần làm giảm áp lực lên mặt bằng giá, trong đó các chính sách về miễn, giảm thuế, gia hạn thuế sẽ góp phần quan trọng trong việc bình ổn giá, kiểm soát lạm phát theo mục tiêu.
Tóm lược thị trường trong nước từ 24/10 - 28/10
Thị trường ngoại tệ: Trong tuần từ 24/10 - 28/10, tỷ giá trung tâm được NHNN điều chỉnh tăng – giảm nhẹ qua các phiên. Chốt ngày 28/10, tỷ giá trung tâm được niêm yết ở mức 23.693 VND/USD, chỉ tăng 05 đồng so với phiên cuối tuần trước đó. NHNN tiếp tục dừng niêm yết tỷ giá mua giao ngay. Tỷ giá bán giao ngay được niêm yết tăng 490 đồng trong phiên đầu tuần lên 24.870 VND/USD và giữ nguyên mức này ở các phiên tiếp theo.
Tỷ giá LNH biến động nhẹ trong tuần qua. Phiên cuối tuần 28/10, tỷ giá LNH đóng cửa tại 24.830 VND/USD, giảm 30 đồng so với phiên cuối tuần trước đó.
Tỷ giá trên thị trường tự do tiếp tục biến động theo xu hướng tăng trong tuần qua, tuy nhiên đà tăng đã chậm lại. Chốt phiên 28/10, tỷ giá tự do tăng 205 đồng ở cả hai chiều mua vào và bán ra, giao dịch tại 25.225 VND/USD và 25.325 VND/USD.
Thị trường tiền tệ LNH: Tuần qua từ 24/10 - 28/10, lãi suất VND LNH biến động tăng – giảm mạnh qua các phiên ở tất cả các kỳ hạn từ 1M trở xuống. Chốt ngày 28/10, lãi suất VND LNH giao dịch quanh mức: ON 4,50% (-0,10 đpt so với phiên cuối tuần trước đó); 1W 6,28% (+0,88 đpt); 2W 7,0% (+1,16 đpt); 1M 7,58% (+0,95%).
Lãi suất USD LNH tiếp tục biến động nhẹ qua các phiên ở tất cả các kỳ hạn trong tuần qua. Chốt tuần 28/10, lãi suất USD LNH đóng cửa ở mức: ON 3,13% (-0,02 đpt); 1W 3,30% (không thay đổi); 2W 3,47% (+0,02 đpt) và 1M 3,60% (+0,03 đpt).
Thị trường mở: Trên thị trường mở tuần từ 24/10 - 28/10, NHNN chào thầu 40.000 tỷ đồng trên kênh cầm cố với các kỳ hạn 07 ngày, lãi suất tăng lên mức 6,0%. Có 35.175,38 tỷ đồng trúng thầu; có 44.200,32 tỷ đồng đáo hạn. NHNN chào thầu tín phiếu NHNN với kỳ hạn 7 ngày; có 75.087,18 tỷ đồng trúng thầu với lãi suất 6,0%, có 126.198,7 tỷ đồng tín phiếu đáo hạn trong tuần.
Như vậy, NHNN bơm ròng 42.086,58 tỷ VND ra thị trường thông qua nghiệp vụ thị trường mở, khối lượng lưu hành trên kênh cầm cố ở mức 83.855,31 tỷ VND, khối lượng tín phiếu ở mức 75.087,18 tỷ đồng.
Thị trường trái phiếu: Ngày 24/10, NHCSXH huy động thành công 3.000/6.000 tỷ đồng TPCPBL gọi thầu (tỷ lệ trúng thầu 50%). Trong đó, kỳ hạn 3 năm và 5 năm huy động được 1.500/2.500 tỷ đồng/kỳ hạn. Lãi suất trúng thầu lần lượt tại 4,7%/năm (không đổi) và 4,8%/năm (+0,30%). Kỳ hạn 10 và 15 năm đấu thầu thất bại. Ngày 26/10, KBNN huy động được 5.000/13.500 tỷ đồng TPCP gọi thầu (tỷ lệ trúng thầu 37%). Trong đó, kỳ hạn 10 năm huy động được 4.600/7.500 tỷ đồng, kỳ hạn 15 năm huy động 400/6.000 tỷ đồng. Lãi suất trúng thầu kỳ hạn 10 năm tại 4,0% (+0,2%) và kỳ hạn 15 năm tại 4,1% (không đổi).
Tuần vừa qua từ 24/10 – 28/10 và tuần này từ 31/10 – 04/11 không có TPCP đáo hạn. Về kế hoạch đấu thầu trong tuần này, ngày 31/10, NHCSXH dự kiến gọi thầu 3.000 tỷ đồng TPCPBL các kỳ hạn từ 3 năm đến 15 năm; tiếp đó ngày 02/11, KBNN dự kiến gọi thầu 10.000 tỷ đồng TPCP các kỳ hạn 10 năm và 15 năm.
Giá trị giao dịch Outright và Repos trên thị trường thứ cấp tuần qua đạt trung bình 4.036 tỷ đồng/phiên, tăng so với mức 2.473 tỷ đồng/phiên của tuần trước đó. Lợi suất TPCP tăng ở tất cả các kỳ hạn. Chốt phiên 28/10, lợi suất TPCP giao dịch quanh 1 năm 4,75% (+0,08 đpt); 2 năm 4,76% (+0,08 đpt); 3 năm 4,76% (+0,08 đpt); 5 năm 4,83% (+0,13đpt); 7 năm 4,91% (+0,16 đpt); 10 năm 4,94% (+0,11 đpt); 15 năm 5,08% (+0,13 đpt); 30 năm 5,34% (+0,12 đpt).
Thị trường chứng khoán: Tuần từ 24/10 - 28/10, thị trường chứng khoán ở trạng thái lình xình, các chỉ số tăng – giảm đan xen. Chốt ngày 28/10, VN-Index đứng ở mức 1.027,36 điểm, tăng nhẹ 7,54 điểm (+0,74%) so với cuối tuần trước đó; HNX-Index giảm 3,68 điểm (-1,69%) về 213,73 điểm; UPCom-Index giảm 2,48 điểm (-3,16%) còn 76,09 điểm.
Thanh khoản thị trường vẫn chưa cải thiện với giá trị giao dịch trung bình trên 12.200 tỷ đồng/phiên. Khối ngoại bán ròng mạnh hơn 4.000 tỷ đồng trên cả 3 sàn trong tuần qua, đặc biệt phiên cuối tuần bán ròng tới hơn 3.000 tỷ đồng.
Tin quốc tế
Mỹ đón một số chỉ báo kinh tế quan trọng. Đầu tiên, báo cáo sơ bộ cho thấy GDP của Mỹ tăng 2,6% q/q trong quý vừa qua, vượt qua mức tăng 2,3% theo kỳ vọng và chấm dứt đà suy giảm liên tiếp trong 2 quý đầu năm 2022. Tại thị trường lao động, số đơn xin trợ cấp thất nghiệp lần đầu trong tuần kết thúc ngày 22/10 ở mức 217 nghìn đơn, tăng nhẹ từ mức 214 nghìn đơn của tuần trước đó và thấp hơn một chút so với mức 219 nghìn đơn theo dự báo. Liên quan tới lạm phát tại Mỹ, chỉ số giá tiêu dùng cá nhân PCE lõi của nước này tăng 0,5% m/m trong tháng 9, không giảm tốc so với đà tăng của tháng 8 và đồng thời khớp với dự báo. So với cùng kỳ năm 2021, PCE lõi tại Mỹ đã tăng 5,1%. Tiếp theo, chỉ số niềm tin tiêu dùng tại Mỹ do Conference Board khảo sát ở mức 102,5 điểm trong tháng 10, giảm tương đối mạnh từ 108 điểm của tháng 9, đồng thời xuống thấp hơn mức 105,9 điểm theo kỳ vọng. Cuối cùng, tại lĩnh vực bất động sản, số nhà chờ bán tại Mỹ giảm mạnh 10,2% m/m trong tháng 9, nối tiếp đà giảm 1,9% của tháng 8 và sâu hơn nhiều so với mức giảm chỉ 4,4% theo dự báo. Doanh số bán nhà mới trong tháng 9 cũng chỉ đạt 603 nghìn căn, thấp hơn mức 677 nghìn căn đạt được ở tháng 8.
NHTW Châu Âu ECB tiếp tục tăng mạnh LSCS. Trong phiên họp ngày 27/10, ECB thông báo tăng bộ LSCS thêm 75 điểm cơ bản, LS tái cấp vốn từ 1,25% lên 2,0%; LS cho vay cận biên từ 1,5% lên 2,25% và LS tiền gửi từ 0,75% lên 1,50%. Bên cạnh đó, cơ quan này cho biết chưa có kế hoạch hạ các tài sản nắm giữ trong bảng cân đối, sẽ tái đầu tư các TPCP đáo hạn theo chương trình APP, các TPCP thuộc chương trình PEPP sẽ được tái đầu tư các khoản chính ít nhất cho tới cuối 2024. Các quan chức EU nhận định đà tăng LSCS của ECB là cần thiết vào lúc này, nhằm giúp EU cải thiện dần tình trạng lạm phát phi mã, mặc dù sẽ có những tổn thất nhất định về tăng trưởng kinh tế trong tương lai gần. ECB cũng thông báo các CSTT tiếp theo sẽ dựa vào triển vọng lạm phát tại từng cuộc họp. Liên quan đến kinh tế Eurozone, PMI lĩnh vực sản xuất của Đức trong tháng 10 ở mức 45,7 điểm; giảm xuống từ 47,8 điểm của tháng trước và đồng thời thấp hơn mức 46,9 điểm theo dự báo. PMI lĩnh vực dịch vụ chỉ giảm nhẹ xuống còn 44,9 điểm từ mức 45,0 điểm của tháng 9, trái với dự báo đi ngang của các chuyên gia. Tại Eurozone nói chung, PMI lĩnh vực sản xuất và dịch vụ lần lượt đạt 46,6 và 48,2 điểm trong tháng 10, cùng giảm so với 48,4 và 48,8 điểm của tháng 9. Tiếp theo, niềm tin kinh doanh tại Đức do Ifo khảo sát ở mức 84,3 điểm trong tháng 10, giảm không đáng kể so với 84,4 điểm của tháng 9, nhưng vẫn nằm thấp hơn khá nhiều so với mức trung tính 100 điểm.