Tổng quan:
Tính từ đầu năm đến cuối tháng 11/2022, vốn đầu tư nước ngoài đăng ký mới tăng chậm. Trong khi đó, vốn giải ngân tích cực, tăng hơn 15% so với cùng kỳ năm ngoái.
Số liệu được Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, công bố, tính đến ngày 20/11/2022, tổng vốn ĐTNN đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần đạt hơn 25,13 tỷ USD, bằng 95% so với cùng kỳ năm 2021, tăng 0,4 đpt so với số liệu lũy kế 10 tháng. Cụ thể, trong 11 tháng qua, có 1.812 dự án mới được cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư (tăng 14,9% so với cùng kỳ), với tổng vốn đăng ký đạt hơn 11,5 tỷ USD (giảm 18% so với cùng kỳ, tăng 5,7 đpt so với 10 tháng). Có 994 lượt dự án đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư (tăng 13,3% so với cùng kỳ), với tổng vốn đăng ký tăng thêm đạt gần 9,54 tỷ USD (tăng 23,3% so với cùng kỳ). Số liệu thống kê cho thấy, quy mô điều chỉnh vốn bình quân/dự án tăng 4,9% so với cùng kỳ. Trong khi đó, bất ngờ đảo chiều, sau 11 tháng, tổng vốn đầu tư thông qua góp vốn, mua cổ phần giảm 7% so với cùng kỳ, đạt gần 4,08 tỷ USD. Số lượt góp vốn, mua cổ phần của NĐTNN cũng chỉ đạt 3.298 lượt, giảm 4,8% so với cùng kỳ. Điểm tích cực là vốn đầu tư thực hiện của các dự án ĐTNN đạt kết quả rất khích lệ với con số sau 11 tháng là 19,68 tỷ USD, tăng 15,1% so với cùng kỳ năm 2021. 11 tháng qua, các NĐTNN đã đầu tư vào 19 ngành trong tổng số 21 ngành kinh tế quốc dân. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đạt hơn 14,96 tỷ USD, chiếm 59,5% tổng vốn đầu tư đăng ký. Ngành kinh doanh BĐS đứng thứ hai với tổng vốn đầu tư gần 4,19 tỷ USD, chiếm 16,7% tổng vốn đầu tư đăng ký. Có thể thấy, vốn ĐTNN thực hiện trong lĩnh vực CN CBCT chiếm đa số, tập trung vào những dự án chất lượng cao, hướng đến phát triển bền vững từ các tập đoàn lớn như Apple, Lego, Samsung. Đặc biệt, năm nay xuất hiện nhiều dự án đầu tư trong lĩnh vực hệ sinh thái của sản xuất chất bán dẫn, làm cho dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ngày càng chất lượng hơn.
Xét về tổng thể, đầu tư nước ngoài ngày càng đóng góp nhiều hơn vào nền kinh tế, giúp nâng cao tốc độ tăng trưởng cũng như trực tiếp tạo việc làm cho hơn 4 triệu lao động, thường xuyên đóng góp trên 70% tổng kim ngạch xuất khẩu, khoảng 25% thu NSNN… Trong bối cảnh thị trường quốc tế bất ổn do lạm phát, chi phí đầu vào tăng cao, thương mại giảm tốc, sự bất định của chiến sự tại Ukraine, nhà đầu tư càng phải cân nhắc đồng vốn mà họ đầu tư ra nước ngoài. Mặc dù vậy, trong 11 tháng năm nay, tổng số vốn FDI thực hiện tại Việt Nam vẫn tăng trên 15%, vốn đăng ký tăng thêm trên 23% so với cùng kỳ, cho thấy niềm tin của NĐTNN, đặc biệt các NĐT hiện hữu, đối với nền kinh tế và môi trường đầu tư của Việt nam. Qua 11 tháng đầu năm, nhiều dự án sản xuất, chế tạo các sản phẩm điện tử, công nghệ cao được tăng vốn với quy mô lớn. Đáng chú ý, dòng vốn đầu tư vào lĩnh vực BĐS đang có dấu hiệu thu hẹp dần trong tháng 10 và tháng 11, ngược với diễn biến chung (370 triệu USD tháng 10 và 330 triệu USD tháng 11, thấp hơn mức trung bình gần 400 triệu USD 9 tháng đầu năm).
Tuy nhiên, các chuyên gia nhận định, sự giảm sút của dòng vốn ĐTNN đăng ký mới vào Việt Nam vẫn đáng lo, đặc biệt là khi các báo cáo về dòng vốn đầu tư toàn cầu cho biết, các chính sách nới lỏng tài chính và các gói kích thích tại mỗi quốc gia đang là động lực thúc đẩy dòng vốn FDI toàn cầu; các khoản đầu tư lớn, trên 1 tỷ USD đang gia tăng; đầu tư của một số ngành, như vận tải, công nghệ thông tin, dịch vụ tài chính… đang bùng nổ mạnh mẽ. Trong khi đó, Việt Nam chưa thực sự tận dụng được một cách tốt nhất để đón dòng vốn đang dịch chuyển này. Thời gian qua, để thúc đẩy hợp tác đầu tư nước ngoài, Chính phủ Việt Nam đã có một loạt động thái quan trọng, như: ban hành các quy định về ưu đãi đầu tư đặc biệt, phê duyệt bộ tiêu chí thu hút FDI có chọn lọc, thành lập tổ công tác đặc biệt để tiếp cận, tháo gỡ khó khăn cho các NĐTNN, đặc biệt là các tập đoàn lớn, có công nghệ nguồn, đứng đầu chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng toàn cầu, … Theo Khảo sát Chỉ số Môi trường kinh doanh (BCI) do Hiệp hội Doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam (EuroCham) thực hiện năm 2022, Việt Nam có thể tăng mức vốn FDI này bằng cách giảm bớt khó khăn về hành chính (theo 68% NĐT Châu Âu trả lời khả sát), cải thiện cơ sở hạ tầng (53%), phát triển năng lực nguồn nhân lực (39%), và giảm rào cản thị thực cho các chuyên gia nước ngoài (39%).
Tóm lược thị trường trong nước từ 19/12 - 23/12
Thị trường ngoại tệ: Trong tuần từ 19/12 - 23/12, tỷ giá trung tâm tiếp tục được NHNN điều chỉnh giảm qua tất cả các phiên. Chốt ngày 23/12, tỷ giá trung tâm được niêm yết ở mức 23.631 VND/USD, giảm 19 đồng so với phiên cuối tuần trước đó. NHNN tiếp tục niêm yết tỷ giá mua giao ngay ở mức 23.450 VND/USD; tỷ giá bán giao ngay ở mức 24.780 VND/USD.
Tỷ giá LNH biến động tăng - giảm mạnh qua các phiên. Tuy nhiên, chốt phiên cuối tuần 23/12, tỷ giá LNH đóng cửa tại 23.600 VND/USD, không thay đổi so với phiên cuối tuần trước đó.
Tỷ giá trên thị trường tự do tiếp tục giảm trong tuần qua. Chốt phiên 23/12, tỷ giá tự do giảm 270 đồng ở chiều mua vào và 300 đồng ở chiều bán ra, giao dịch tại 24.060 VND/USD và 24.130 VND/USD.
Thị trường tiền tệ LNH: Tuần từ 19/12 - 23/12, lãi suất VND LNH giảm ở hầu hết các kỳ hạn. Chốt ngày 23/12, lãi suất VND LNH giao dịch quanh mức: ON 3,50% (-0,99 đpt so với phiên cuối tuần trước đó); 1W 4,83% (-1,03 đpt); 2W 6,45% (-0,09 đpt); 1M 7,80% (+0,01 đpt).
Lãi suất USD LNH tăng ở tất cả các kỳ hạn. Chốt tuần 23/12, lãi suất USD LNH đóng cửa ở mức: ON 4,26% (+0,05 đpt); 1W 4,43% (+0,10 đpt); 2W 4,53% (+0,10 đpt) và 1M 4,68% (+0,08 đpt).
Thị trường mở: Trên thị trường mở tuần từ 19/12 - 23/12, NHNN chào thầu 19.000 tỷ đồng trên kênh cầm cố với kỳ hạn 7 ngày, lãi suất ở mức 6,0%. Có 14.569,97 tỷ đồng trúng thầu; có 26.604,38 tỷ đồng đáo hạn. NHNN chào thầu 80.000 tỷ đồng tín phiếu NHNN và được các TCTD hấp thụ hết với lãi suất phiên đầu tiên ở mức 4,39%, 3 hôm cuối tuần ở mức 3,98%.
Như vậy, NHNN hút ròng 94.034,41 tỷ đồng từ thị trường thông qua nghiệp vụ thị trường mở, khối lượng lưu hành trên kênh cầm cố ở mức 55.702,78 tỷ VND, tín phiếu NHNN ở mức 80.000 tỷ đồng.
Thị trường trái phiếu: Ngày 19/12, NHCSXH huy động thành công 1.000/ 2.000 tỷ đồng TPCPBL gọi thầu. Trong đó, kỳ hạn 5 năm huy động được toàn bộ 1.000 tỷ đồng, kỳ hạn 10 năm và 15 năm đấu thầu thất bại. Lãi suất trúng thầu kỳ hạn 5 năm tại 4,8%/năm, không thay đổi so với phiên đấu thầu trước. Ngày 21/12, KBNN huy động thành công toàn bộ 6.000 tỷ đồng TPCP gọi thầu. Trong đó, 2 kỳ hạn 10 năm và 15 năm huy động được 3.000 tỷ đồng/kỳ hạn. Lãi suất trúng thầu hai kỳ hạn lần lượt tại 4,74%/năm (-0,06 đpt) và 4,89%/năm (-0,01 đpt).
Tuần vừa qua từ 19/12 – 23/12 và tuần này từ 26/12 – 30/12 không có TPCP đáo hạn. Về kế hoạch đấu thầu trong tuần này, ngày 28/12, KBNN dự kiến gọi thầu 5.500 tỷ đồng TPCP các kỳ hạn 10 năm và 15 năm.
Giá trị giao dịch Outright và Repos trên thị trường thứ cấp tuần qua đạt trung bình 3.404 tỷ đồng/phiên, giảm nhẹ so với mức 3.677 tỷ đồng/phiên của tuần trước đó. Lợi suất TPCP giảm nhẹ trong tuần qua ở hầu hết các kỳ hạn. Chốt phiên 23/12, lợi suất TPCP giao dịch quanh 1 năm 4,68% (-0,03 đpt); 2 năm 4,69% (-0,04 đpt); 3 năm 4,7% (-0,04 đpt); 5 năm 4,76% (-0,04đpt); 7 năm 4,81% (-0,03 đpt); 10 năm 4,85% (-0,05 đpt); 15 năm 4,99% (-0,03 đpt); 30 năm 5,29% (+0,01 đpt).
Thị trường chứng khoán: Tuần từ 19/12 - 23/12, thị trường chứng khoán diễn biến theo xu hướng giảm. Chốt ngày 23/12, VN-Index đứng ở mức 1.020,34 điểm, mất 32,14 điểm (-3,05%) so với cuối tuần trước đó; HNX-Index giảm 7,69 điểm (-3,61%) về 205,30 điểm; UPCom-Index giảm 1,18 điểm (-1,63%) còn 71,01 điểm.
Thanh khoản thị trường tương tự tuần trước đó với giá trị giao dịch trung bình trên 15.100 tỷ đồng/phiên. Khối ngoại bán ròng hơn 2.900 tỷ đồng trên cả 3 sàn trong tuần qua.
Tin quốc tế
Mỹ ghi nhận một số thông tin kinh tế đáng chú ý. Đầu tiên, GDP của nước Mỹ chính thức tăng 3,2% q/q trong Q3, điều chỉnh cao hơn so với mức 2,9% theo kết quả thống kê sơ bộ lần 2. Tiếp theo, chỉ số giá tiêu dùng cá nhân PCE lõi tại quốc gia này tăng 0,2% m/m trong tháng 11 sau khi tăng 0,3% ở tháng trước đó, khớp với dự báo của các chuyên gia. Như vậy, so với cùng kỳ năm 2021, PCE lõi tại Mỹ tăng 4,7% trong tháng vừa qua, tiếp tục hạ nhiệt từ mức 5,0% của tháng 10. Chỉ số niềm tin tiêu dùng tại Mỹ do Conference Board khảo sát được ở mức 108,3 điểm trong tháng 12, tăng mạnh từ 101,4 điểm của tháng trước, trái với dự báo giảm nhẹ xuống còn 101 điểm. Đây là mức niềm tin cao nhất mà nước Mỹ ghi nhận kể từ tháng 04/2022. Ở thị trường lao động, số đơn xin trợ cấp thất nghiệp lần đầu tuần kết thúc ngày 16/12 ghi nhận ở mức 216 nghìn đơn, tăng nhẹ từ 211 nghìn đơn của tuần trước đó nhưng vẫn thấp hơn dự báo ở mức 221 nghìn, kéo dài giai đoạn tích cực và ổn định nhất kể từ sau khi bị tác động bởi Covid-19. Về lĩnh vực xây dựng và bất động sản, số đơn cấp phép xây dựng nhà tại Mỹ đạt 1,34 triệu đơn trong tháng 11, giảm so với 1,51 triệu đơn của tháng 10, đồng thời thấp hơn mức 1,48 triệu đơn theo dự báo. Tuy nhiên, số nhà khởi công trong tháng vừa qua vẫn đạt 1,43 triệu căn, bằng với kết quả của tháng 10 và tích cực hơn so với 1,40 triệu căn theo kỳ vọng. Cuối cùng, doanh số bán nhà mới tại Mỹ đạt 640 nghìn căn trong tháng 11, cao hơn mức 605 nghìn căn của tháng 10 và đồng thời cao hơn mức 600 nghìn căn theo dự báo.
NHTW Nhật Bản BOJ có phiên họp cuối năm, tiếp tục CSTT nới lỏng. Trong cuộc họp ngày 20/12, BOJ quyết định duy trì LSCS ở mức -0,1%; không thay đổi so với trước. NHTW này cũng sẽ mua lượng TPCP Nhật Bản cần thiết (không giới hạn) để lợi suất kỳ hạn 10 năm duy trì quanh mức 0%. Mặc dù vậy, trong cuộc họp lần này, BOJ thông báo thay đổi phạm vi mục tiêu đối với lợi suất TPCP kỳ hạn 10 năm từ ± 0,25 đpt sang ± 0,5 đpt. Cơ quan này cho biết động thái trên nhằm giúp thị trường vận hành trơn tru hơn, đồng thời duy trì các điều kiện tài chính phù hợp bối cảnh kinh tế. BOJ khẳng định tiếp tục thực hiện các chính sách nới lỏng định lượng và định tính, nhằm đạt được lạm phát ổn định ở mức 2,0%. Liên quan tới lạm phát tại Nhật Bản, chỉ số CPI của nước này ghi nhận mức tăng 3,7% y/y trong tháng 11, cao hơn mức 3,6% của tháng 10 và khớp với dự báo.