Tin trong nước:
Thị trường ngoại tệ: Phiên 01/03, NHNN niêm yết tỷ giá trung tâm ở mức 23.643 VND/USD, giảm nhẹ 01 đồng so với phiên trước đó. Tỷ giá bán giao ngay được giữ nguyên niêm yết ở mức 24.780 VND/USD; tỷ giá mua giao ngay ở mức 23.450 VND/USD. Trên thị trường LNH, tỷ giá chốt phiên với mức 23.720 VND/USD, giảm tiếp 30 đồng so với phiên 28/02. Tỷ giá trên thị trường tự do giảm 70 đồng ở cả hai chiều mua vào và bán ra, giao dịch tại 23.750 VND/USD và 23.850 VND/USD.
Thị trường tiền tệ LNH: Ngày 01/03, lãi suất chào bình quân LNH VND tăng trở lại 0,03 - 0,72 đpt ở tất cả các kỳ hạn từ 1M trở xuống so với phiên trước đó, cụ thể: ON 6,0%; 1W 6,25%; 2W 6,55% và 1M 6,98%. Lãi suất chào bình quân LNH USD tăng 0,01 – 0,02 đpt ở tất cả các kỳ hạn; giao dịch tại: ON 4,47%; 1W 4,61%; 2W 4,71%, 1M 4,85%. Lợi suất TPCP trên thị trường thứ cấp tăng ở các kỳ hạn 7Y và 15Y trong khi giảm ở các kỳ hạn còn lại, cụ thể: 3Y 3,84%; 5Y 3,87%; 7Y 3,97%; 10Y 4,38%; 15Y 4,55%.
Nghiệp vụ thị trường mở: Hôm qua, NHNN chào thầu trên kênh cầm cố kỳ hạn 07 ngày, đấu thầu lãi suất. Có 3.999,99 tỷ đồng trúng thầu với lãi suất 6,0%, có 5.999,99 tỷ đồng đáo hạn. NHNN chào thầu tín phiếu NHNN kỳ hạn 7 ngày và 91 ngày, đấu thầu lãi suất. Có 5.600 tỷ đồng trúng thầu ở kỳ hạn 7 và 2.500 tỷ đồng trúng thầu kỳ hạn 91 ngày cùng với lãi suất ở mức 6,0%; có 8.750 tỷ đồng đáo hạn. Như vậy, NHNN hút ròng 1.350 tỷ đồng từ thị trường thông qua nghiệp vụ thị trường mở, khối lượng lưu hành trên kênh cầm cố ở mức 29.923,26 tỷ đồng, khối lượng tín phiếu lưu hành là 158.779,2 tỷ đồng.
Thị trường trái phiếu: Ngày 01/03, KBNN huy động 8.250 tỷ đồng TPCP, khối lượng trúng thầu là 2.750 tỷ đồng (đạt 33%). Trong đó, 5 năm và 10 năm lần lượt huy động được 650 và 2.100 tỷ. Lãi suất trúng thầu hai kỳ hạn trên lần lượt tại 3,68%/năm và 4,17%/năm, tăng 0,03 và 0,10 đpt so với tuần trước. Riêng kỳ hạn 15 năm không có khối lượng trúng thầu.
Thị trường chứng khoán: Hôm qua, thị trường chống chịu tốt vào phiên sáng và tăng tốt cuối phiên, bất chấp khối ngoại bán ra mạnh. Kết thúc phiên giao dịch, VN-Index tăng 15,87 điểm (+1,55%) lên mức 1.040,55 điểm; HNX-Index thêm 4,45 điểm (+2,20%) đạt 206,83 điểm; UPCoM-Index nhích 0,20 điểm (+0,26%) lên 76,64 điểm. Thanh khoản thị trường tuy có cải thiện nhưng vẫn ở mức thấp với giá trị giao dịch khoảng trên 9.400 tỷ VND. Khối ngoại bán ròng gần 300 tỷ đồng trên cả 3 sàn.
Liên Bộ Công thương – Tài chính điều chỉnh giảm lần thứ 2 liên tiếp giá xăng dầu từ ngày 01/03. Cụ thể, xăng E5RON92 không cao hơn 22.421 đồng/lít, giảm 121 đồng/lít so với giá bán lẻ hiện hành; xăng RON95-III: 23.325 đồng/lít, giảm 118 đồng/lít; dầu điêzen 0.05S: 20.255 đồng/lít (giảm 551 đồng/lít); dầu hỏa: 20.474 đồng/lít (giảm 372 đồng/lít); dầu mazut 180CST 3.5S: 14.555 đồng/kg (tăng 304 đồng/kg).
Tin quốc tế:
Viện Quản lý Cung ứng Mỹ ISM cho biết PMI lĩnh vực sản xuất của nước này đạt mức 47,7% trong tháng 2 vừa qua, tăng nhẹ từ 47,4% của tháng 1 và thấp hơn một chút so với dự báo ở mức 47,9%. Đây là tháng thứ 3 liên tiếp lĩnh vực sản xuất rơi vào trạng thái thu hẹp, sau khi duy trì 30 tháng mở rộng liên tiếp trước đó.
Chỉ số giá tiêu dùng CPI toàn phần tại Đức tăng 0,8% m/m trong tháng 2, nối tiếp đà tăng 1,0% của tháng 1 và cao hơn mức tăng 0,5% theo dự báo. So với cùng kỳ 2022, CPI tại Đức tháng vừa qua tăng 8,7% y/y, tương tự kết quả của tháng 1. Tiếp theo, tại thị trường lao động, nước Đức tạo ra 2 nghìn việc làm mới trong tháng 1 sau khi để sụt 11 nghìn việc làm ở tháng trước đó, đồng thời chưa đạt mức 9 nghìn việc làm mới như kỳ vọng. Cuối cùng, PMI lĩnh vực sản xuất tại Đức chính thức đạt 46,3 điểm trong tháng 2, thấp hơn mức 46,5 điểm theo khảo sát sơ bộ.
Văn phòng Thống kê Úc ABS cho biết chỉ số giá tiêu dùng CPI toàn phần tại nước này tăng 7,4% y/y trong tháng 1, thấp hơn mức 8,4% của tháng trước đó và đồng thời thấp hơn mức 8,1% theo dự báo. Bên cạnh đó, GDP quý 4/2022 của Úc chỉ tăng trưởng 0,5% q/q, thấp hơn nhiều so với mức tăng 1,0% của quý 3 và đồng thời thấp hơn mức tăng 0,8% theo kỳ vọng.