Tin trong nước:
Thị trường ngoại tệ: Phiên 12/06, NHNN niêm yết tỷ giá trung tâm ở mức 24.254 VND/USD, tăng tiếp 04 đồng so với phiên trước đó. Tỷ giá mua giao ngay và tỷ giá bán giao ngay được giữ nguyên niêm yết lần lượt ở mức 23.400 VND/USD và 25.450 VND/USD. Trên thị trường LNH, tỷ giá chốt phiên với mức 25.440 VND/USD, giảm 10 đồng so với phiên 11/06. Tỷ giá trên thị trường tự do tăng 20 đồng ở chiều mua vào trong khi không thay đổi ở chiều bán ra, giao dịch tại 25.670 VND/USD và 25.780 VND/USD.
Thị trường tiền tệ LNH: Ngày 12/06, lãi suất chào bình quân LNH VND tăng 0,07 - 0,11 đpt ở tất cả các kỳ hạn từ 1M trở xuống so với phiên trước đó; cụ thể: ON 4,57%; 1W 4,68%; 2W 4,78% và 1M 4,93%. Lãi suất chào bình quân LNH USD tăng 0,01 đpt ở các kỳ hạn ON và 1M trong khi giảm 0,01 đpt ở kỳ hạn 1W và đi ngang ở kỳ hạn 2W, giao dịch tại: ON 5,28%; 1W 5,33%; 2W 5,39%, 1M 5,42%. Lợi suất TPCP trên thị trường thứ cấp biến động trái chiều; chốt phiên ở mức: 3Y 1,90%; 5Y 2,01%; 7Y 2,30%; 10Y 2,81%; 15Y 3,02%.
Nghiệp vụ thị trường mở: Trên kênh cầm cố, NHNN chào thầu 3.000 tỷ đồng, kỳ hạn 07 ngày, lãi suất giữ ở mức 4,5%. Không có khối lượng trúng thầu, có 3.109,63 tỷ đồng đáo hạn. NHNN chào thầu tín phiếu NHNN kỳ hạn 28 ngày, đấu thầu lãi suất. Có 600 tỷ đồng trúng thầu với lãi suất giữ ở mức 4,25%, có 200 tỷ đồng tín phiếu đáo hạn. Như vậy, NHNN hút ròng 3.509,63 tỷ đồng từ thị trường, khối lượng tín phiếu lưu hành trên thị trường ở mức 69.110 tỷ đồng, khối lượng trên kênh cầm cố ở mức 3.172,67 tỷ đồng.
Thị trường trái phiếu: Ngày 12/06, KBNN gọi thầu thành công 5.570 tỷ đồng/8.500 tỷ đồng TPCP gọi thầu, tương ứng tỷ lệ trúng thầu đạt 66%. Trong đó, kỳ hạn 5Y và 10Y huy động được toàn bộ khối lượng gọi thầu, lần lượt 1.000 tỷ đồng và 4.500 tỷ đồng, kỳ hạn 30Y huy động được 70 tỷ đồng/500 tỷ đồng gọi thầu. Các kỳ hạn 15Y và 20Y gọi thầu lần lượt 2.000 tỷ đồng và 500 tỷ đồng, tuy nhiên đều không có khối lượng trúng thầu. Lãi suất trúng thầu kỳ hạn 5Y là 1,83% (+0,03 đpt so với phiên đấu thầu trước), 10Y là 2,74% (+0,08 đpt) và 30Y là 3,10% (không đổi).
Thị trường chứng khoán: Thị trường chứng khoán phiên hôm qua diễn biến giằng co, lực mua mạnh vào cuối phiên giúp các chỉ số tăng điểm, VN-Index lấy lại mốc 1.300 điểm sau 2 năm. Kết phiên, VN-Index tăng mạnh 15,78 điểm (+1,23%) đạt mức 1.300,19 điểm; HNX-Index thêm 1,90 điểm (+0,77%) đạt 248,31 điểm; UPCoM-Index nhích 0,18 điểm (+0,19%) lên 99,14 điểm. Thanh khoản thị trường giảm nhẹ với giá trị giao dịch gần 26.200 tỷ đồng. Khối ngoại bán ròng hơn 628 tỷ đồng trên cả 3 sàn.
Theo số liệu Tổng cục Hải quan vừa công bố, tháng 5/2024, cán cân thương mại hàng hóa cả nước nhập siêu 0,45 tỷ USD; lũy kế 5 tháng xuất siêu 8,61 tỷ. Trong đó, tháng 5/2024, kim ngạch xuất khẩu đạt 32,27 tỷ USD, nhập khẩu đạt 32,72 tỷ. Lũy kế 5 tháng đầu năm, kim ngạch XK đạt 156,28 tỷ USD, tăng 14,9% so với cùng kỳ năm ngoái; NK đạt 147,67 tỷ, tăng 17,3%. Tổng kim ngạch XNK 5 tháng đầu năm cả nước đạt 303,95 tỷ USD, tăng 16,6% so với cùng kỳ 2023.
Tin quốc tế:
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ Fed dự báo kinh tế, lạm phát và đường đi LSCS trong cuộc họp tháng 6. Trong phiên họp vừa diễn ra ngày 12/06, Fed cho rằng các hoạt động kinh tế trong thời gian gần đây vẫn mở rộng với tốc độ vững chắc. Lạm phát đã giảm bớt trong một năm vừa qua nhưng vẫn ở mức cao. Tiến độ đưa lạm phát về mức mục tiêu 2,0% trong những tháng gần nhất cho thấy sự khiêm tốn hơn so với trước. Theo dự báo bình quân của Fed, trong năm 2024 và 2025, tốc độ tăng GDP sẽ lần lượt ở mức 2,1% và 2,0% (cùng không thay đổi so với dự báo tháng 3); tỷ lệ thất nghiệp lần lượt là 4,0% (không đổi) và 4,2% (+0,1 đpt); chỉ số giá tiêu dùng cá nhân PCE toàn phần lần lượt là 2,6% (+0,2 đpt) và 2,3% (+0,1 đpt), PCE lõi là 2,8% (+0,2 đpt) và 2,3% (+0,1 đpt). Quan trọng hơn, Fed dự báo LSCS sẽ ở khoảng 5,1% ở cuối năm 2024 (+0,5 đpt so với dự báo tháng 3) và 4,1% năm 2025 (+0,2 đpt). Điều này có nghĩa rằng sẽ chỉ có một lần cắt giảm LSCS duy nhất trong năm 2024, ít hơn so với 3 lần cắt giảm theo dự báo trước. Liên quan đến lạm phát tại Mỹ, chỉ số giá tiêu dùng CPI toàn phần và CPI lõi tại Mỹ lần lượt đi ngang (0,0% m/m) và tăng 0,2% m/m trong tháng 5, giảm tốc so với kết quả cùng tăng 0,3% ở tháng 4, đồng thời thấp hơn dự báo lần lượt tăng 0,1% và 0,3%. So với cùng kỳ năm 2023, CPI toàn phần tăng 3,3% và CPI lõi tăng 3,4% y/y.
Văn phòng Thống kê Quốc gia Anh ONS công bố GDP nước này đi ngang (0,0% m/m) trong tháng 4 sau khi tăng 0,4% ở tháng trước đó và khớp với dự báo. Bên cạnh đó, sản lượng xây dựng tại Anh giảm 1,4% m/m trong tháng 4, nối tiếp đà giảm 0,4% ở tháng trước đó và trái với kỳ vọng tăng nhẹ 0,1%. Sản lượng công nghiệp tại quốc gia này cũng ghi nhận mức giảm 0,9% m/m trong tháng 4 sau khi tăng 0,2% ở tháng 3, sâu hơn mức giảm 0,1% theo dự báo. Cuối cùng, cán cân thương mại hàng hóa tại Anh thâm hụt 19,6 tỷ GBP trong tháng 4, sâu hơn mức 14 tỷ của tháng 3 và đồng thời sâu hơn mức thâm hụt 14,2 tỷ theo dự báo.
Bản tin Kinh tế - Tài chính ngày 13/06/2024