Tin trong nước:
Thị trường ngoại tệ: Phiên 11/04, NHNN niêm yết tỷ giá trung tâm ở mức 24.046 VND/USD, tăng 10 đồng so với phiên trước đó. Tỷ giá mua giao ngay được giữ nguyên niêm yết ở mức 23.400 VND/USD. Tỷ giá bán giao ngay được niêm yết ở mức 25.198 VND/USD, thấp hơn 50 đồng so với trần tỷ giá. Trên thị trường LNH, tỷ giá chốt phiên với mức 24.987 VND/USD, tăng 45 đồng so với phiên 10/04. Tỷ giá trên thị trường tự do tăng mạnh 165 đồng ở chiều mua vào và 135 đồng ở chiều bán ra, giao dịch tại 25.505 VND/USD và 25.585 VND/USD.
Thị trường tiền tệ LNH: Ngày 11/04, lãi suất chào bình quân LNH VND giảm 0,04 – 0,07 đpt ở các kỳ hạn ngắn trong khi tăng 0,01 đpt ở kỳ hạn 1M so với phiên trước đó, cụ thể: ON 3,82%; 1W 3,95%; 2W 3,95% và 1M 3,97%. Lãi suất chào bình quân LNH USD giảm 0,01 – 0,02 đpt ở hầu hết các kỳ hạn ngoại trừ ngang ở kỳ hạn 1M; giao dịch tại: ON 5,22%; 1W 5,31%; 2W 5,39%, 1M 5,41%. Lợi suất TPCP trên thị trường thứ cấp tăng ở tất cả các kỳ hạn; chốt phiên ở mức: 3Y 1,83%; 5Y 2,03%; 7Y 2,24%; 10Y 2,73%; 15Y 2,93%.
Nghiệp vụ thị trường mở: Trên kênh cầm cố, NHNN chào thầu 5.000 tỷ đồng với kỳ hạn 7 ngày, lãi suất vẫn giữ ở mức 4,0%. Không có khối lượng trúng thầu, không còn khối lượng lưu hành trên kênh này. NHNN chào thầu tín phiếu NHNN với kỳ hạn 28 ngày, đấu thầu lãi suất. Có 5.600 tỷ đồng tín phiếu trúng thầu với lãi suất tăng lên mức 3,5%. Có 14.999,7 tỷ đồng tín phiếu đáo hạn. Như vậy, NHNN bơm ròng 9.399,7 tỷ đồng ra thị trường trong phiên hôm qua, khối lượng tín phiếu lưu hành trên thị trường giảm xuống mức 129.449,9 tỷ đồng.
Thị trường chứng khoán: Phiên hôm qua, các chỉ số tiếp tục dao động trong biên độ hẹp. Kết thúc phiên giao dịch, VN-Index giảm 0,36 điểm (-0,03%) xuống 1.258,20 điểm; HNX-Index tăng nhẹ 0,28 điểm (+0,12%) lên mức 239,07 điểm; UPCoM-Index nhích 0,27 điểm (+0,30%) lên 90,92 điểm. Thanh khoản thị trường tương tự phiên trước đó với giá trị giao dịch đạt trên 18.500 tỷ đồng. Khối ngoại mua ròng nhẹ gần 84 tỷ đồng trên cả 3 sàn.
Liên Bộ Công Thương - Tài chính điều chỉnh giá xăng dầu, theo đó từ ngày 11/04 giá xăng E5RON92 và dầu mazut giảm nhẹ, các mặt hàng còn lại tăng khá. Cụ thể, sau điều chỉnh, giá xăng E5RON92, giảm 68 đồng/lít, không cao hơn 23.848 đồng/lít; xăng RON95-III không cao hơn 24.821 đồng/lít (tăng 20 đồng/lít so với giá cơ sở hiện hành); dầu diezen 0.05S không cao hơn 21.610 đồng/lít (tăng 622 đồng/lít so với giá cơ sở hiện hành); dầu hỏa 21.594 đồng/lít (tăng 579 đồng/lít); dầu mazut 180CST 3.5S không cao hơn 17.008 đồng/kg (giảm 288 đồng/kg).
Tin quốc tế:
Cục Thống kê Lao động Mỹ cho biết chỉ số giá sản xuất PPI toàn phần và PPI lõi tại Mỹ cùng tăng 0,2% m/m trong tháng 3 sau khi lần lượt tăng 0,6% và 0,3% ở tháng 2, gần khớp với mức tăng 0,3% và 0,2% theo dự báo. So với cùng kỳ năm 2023, PPI toàn phần và lõi lần lượt tăng 2,1% và 2,8% y/y trong tháng vừa qua, cùng cao hơn so với mức tăng 1,6% và 2,7% của tháng trước đó. Tiếp theo, về thị trường lao động, số đơn xin trợ cấp thất nghiệp lần đầu tại Mỹ tuần kết thúc ngày 06/04 ở mức 211 nghìn đơn, giảm nhẹ xuống từ 221 nghìn đơn của tuần trước đó, đồng thời thấp hơn mức 216 nghìn đơn theo dự báo. Số đơn trung bình trong 4 tuần gần nhất ở mức 214,25 nghìn đơn, giảm nhẹ khoảng 0,25 nghìn đơn so với trung bình 4 tuần liền trước.
NHTW Châu Âu không thay đổi LSCS trong cuộc họp tháng 4. Trong cuộc họp ngày hôm qua 11/04, ECB nhận định áp lực lạm phát tại Eurozone tiếp tục giảm do giá lương thực và hàng hóa giảm, tuy nhiên áp lực giá ở lĩnh vực dịch vụ vẫn đang ở mức cao. Cơ quan này quyết tâm đảm bảo lạm phát quay trở lại mục tiêu trung hạn 2,0% một cách kịp thời. Mức LSCS mà ECB áp dụng đang đóng góp tích cực vào quá trình hạ nhiệt lạm phát. Theo đó, ECB quyết định giữ LSCS gồm LS cho tay tái cấp vốn, LS cho vay cận biên và LS tiền gửi tại ECB lần lượt ở mức 4,5%, 4,75% và 4,0%, không thay đổi so với trước. ECB sẽ không đưa ra bất kỳ lộ trình cụ thể nào, tiếp tục dựa vào dữ liệu trong từng cuộc họp để đưa ra các quyết định tiếp theo. Nếu các yếu tố trong tương lai chỉ ra rằng lạm phát đang hạ nhiệt về mức mục tiêu một cách bền vững, việc cắt giảm LSCS sẽ trở nên phù hợp.
Cục Thống kê Trung Quốc công bố chỉ số giá tiêu dùng CPI toàn phần tại nước này tăng 0,1% y/y trong tháng 3, thấp hơn nhiều so với mức 0,7% của tháng trước đó và đồng thời thấp hơn mức 0,4% theo dự báo. Bên cạnh đó, chỉ số giá sản xuất PPI tại Trung Quốc giảm 2,8% y/y trong tháng vừa qua, không thay đổi nhiều so với mức giảm 2,7% của tháng 2 và khớp với dự báo.
Bản tin Kinh tế - Tài chính ngày 12/04/2024