Tin trong nước:
Thị trường ngoại tệ: Phiên 05/11, NHNN niêm yết tỷ giá trung tâm ở mức 24.248 VND/USD, giảm 05 đồng so với phiên đầu tuần. Tỷ giá mua giao ngay và tỷ giá bán giao ngay được giữ nguyên niêm yết lần lượt ở mức 23.400 VND/USD và 25.450 VND/USD. Trên thị trường LNH, tỷ giá chốt phiên với mức 25.346 VND/USD, tăng tiếp 31 đồng so với phiên 04/11. Tỷ giá trên thị trường tự do không thay đổi ở cả hai chiều mua vào và bán ra, giao dịch tại 25.780 VND/USD và 25.880 VND/USD.
Thị trường tiền tệ LNH: Ngày 05/11, lãi suất chào bình quân LNH VND giảm trở lại 0,25 – 0,58 đpt ở tất cả các kỳ hạn từ 1M trở xuống so với phiên đầu tuần; cụ thể: ON 5,65%; 1W 5,60%; 2W 5,60 và 1M 5,50%. Lãi suất chào bình quân LNH USD giảm 0,01 – 0,02 đpt ở các kỳ hạn ngắn trong khi không thay đổi ở kỳ hạn 2W và tăng 0,01 đpt ở kỳ hạn 1M, giao dịch tại: ON 4,84%; 1W 4,88%; 2W 4,92%, 1M 4,94%. Lợi suất TPCP trên thị trường thứ cấp biến động trái chiều; chốt phiên ở mức: 3Y 1,88%; 5Y 1,91%; 7Y 2,20%; 10Y 2,71%; 15Y 2,92%.
Nghiệp vụ thị trường mở: Trên kênh cầm cố, NHNN chào thầu 20.000 tỷ đồng, kỳ hạn 07 ngày, lãi suất ở mức 4,0%, đấu thầu khối lượng. Có 19.999,95 tỷ đồng trúng thầu. Có 14.999,91 tỷ đồng đáo hạn trên kênh cầm cố. NHNN chào thầu tín phiếu NHNN ở kỳ hạn 28 ngày, đấu thầu lãi suất. Có 600 tỷ đồng trúng thầu, lãi suất giữ ở mức 3,90%. Có 3.600 tỷ đồng tín phiếu đáo hạn. Như vậy, NHNN bơm ròng 8.000,04 tỷ đồng ra thị trường qua kênh thị trường mở trong phiên hôm qua. Có 58.999,92 tỷ đồng lưu hành trên kênh cầm cố, có 79.500 tỷ đồng tín phiếu lưu hành trên thị trường.
Thị trường chứng khoán: Thị trường chứng khoán phiên hôm qua tiếp tục giằng co với dòng tiền rất thấp. Chốt phiên, VN-Index tăng nhẹ 1,05 điểm (+0,08%) lên mức 1.245,76 điểm; HNX-Index nhích 0,40 điểm (+0,18%) đạt 224,86 điểm; UPCoM-Index thêm 0,30 điểm (+0,32%) lên 91,90 điểm. Thanh khoản thị trường sụt giảm với giá trị giao dịch đạt gần 11.700 tỷ đồng. Khối ngoại tiếp tục bán ròng gần 833 tỷ đồng trên cả 3 sàn.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến ngày 31/10/2024, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần, mua phần vốn góp (GVMCP) của nhà ĐTNN đạt gần 27,26 tỷ USD, tăng 1,9% so với cùng kỳ năm 2023. Cụ thể, có 2.743 dự án mới được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư (tăng 1,4% so với cùng kỳ), tổng vốn đăng ký đạt gần 12,23 tỷ USD (giảm 2,5%); có 1.151 lượt dự án đăng ký điều chỉnh vốn ĐT (tăng 6%), tổng vốn đăng ký tăng thêm đạt gần 8,35 tỷ USD (tăng 41,7%). Có 2.669 giao dịch GVMCP của nhà ĐTNN (giảm 10,4%), tổng giá trị vốn góp đạt hơn 3,68 tỷ USD (giảm 29%). Tính tới hết tháng 10/2024, ước tính các dự án ĐTNN giải ngân được khoảng hơn 19,58 USD, tăng 8,8%.
Tin quốc tế:
Viện Quản lý Cung ứng Mỹ ISM cho biết chỉ số PMI lĩnh vực dịch vụ tại nước này ở mức 56,0% trong tháng 10, tăng lên từ 54,9% của tháng trước đó và trái với dự báo giảm xuống còn 53,8%. Đây là tháng thứ 4 liên tiếp lĩnh vực dịch vụ cho thấy sự mở rộng, đồng thời cũng là mức PMI lớn nhất kể từ sau tháng 11/2022 cho tới nay. Có 14 ngành ghi nhận sự tăng trưởng trong tháng 10, và chỉ có 2 ngành ghi nhận sự thu hẹp.
NHTW Úc RBA không thay đổi LSCS trong cuộc họp tháng 11. Trong phiên họp ngày hôm qua 05/11, RBA cho biết lạm phát trong quý 3 tăng 2,8% q/y, giảm tốc từ mức 3,8% ghi nhận ở quý 2, chủ yếu do sự hỗ trợ về giá điện của Chính phủ trong quý vừa qua. Cơ quan này đánh giá lạm phát vẫn còn cao và nhiều rủi ro tăng trở lại. RBA dự báo lạm phát sẽ không ổn định ở mức trung bình 2,5% của mục tiêu (2,0% - 3,0%) cho tới năm 2026. Nhiều chỉ số cho thấy tổng cầu vẫn vượt trội hơn so với tổng cung, đặc biệt là thị trường lao động vẫn ở trạng thái thắt chặt. Theo đó, RBA quyết định giữ LSCS ở mức 4,35%, không thay đổi so với trước, đánh dấu tròn 1 năm cơ quan này duy trì CSTT thắt chặt với LSCS cao nhất trong vòng 13 năm qua. Trả lời báo chí sau cuộc họp, Thống đốc RBA Michele Billock cho rằng NHTW Úc đã đạt được những tiến triển đáng kể, tuy nhiên giai đoạn cuối của hành trình kiểm soát lạm phát là vô cùng thách thức.
Bản tin Kinh tế - Tài chính ngày 06/11/2024