Kính gửi Anh/Chị
Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế - Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam xin giới thiệu tới Anh/Chị Tổng hợp Kinh tế - Tài chính tuần 25/09 - 29/09/2023 (chi tiết xem file đính kèm).
Tổng quan:
Theo Tổng cục thống kê (GSO), tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý 3/2023 ước tính tăng 5,33% so với cùng kỳ năm trước, mặc dù chỉ cao hơn tốc độ tăng của cùng kỳ các năm 2020 và 2021 trong giai đoạn 2011-2023 nhưng với xu hướng tích cực hơn so với hai quý đầu năm (quý 1 tăng 3,28%, quý 2 tăng 4,05%, quý 3 tăng 5,33%). Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,72%, đóng góp 8,03% vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 5,19%, đóng góp 38,63%; khu vực dịch vụ tăng 6,24%, đóng góp 53,34%.
Về sử dụng GDP quý 3/2023, tiêu dùng cuối cùng tăng 3,79% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 40,56% vào tốc độ tăng chung của nền kinh tế; tích lũy tài sản tăng 6,61%, đóng góp 44,92%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 2,27%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 1,42%; chênh lệch xuất, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ đóng góp 14,52%.
GDP 9 tháng năm 2023 tăng 4,24% so với cùng kỳ năm trước, chỉ cao hơn tốc độ tăng 2,19% và 1,57% của 9 tháng các năm 2020 và 2021 trong giai đoạn 2011-2023. GSO đánh giá khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, năng suất lúa đông xuân và hè thu đạt khá, sản lượng một số cây lâu năm chủ yếu tăng so với cùng kỳ năm trước, chăn nuôi phát triển ổn định, nuôi trồng thủy sản đạt kết quả khả quan. Trái lại, khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức trong bối cảnh tổng cầu thế giới suy giảm. Giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp 9 tháng năm 2023 chỉ tăng 1,65% so với cùng kỳ năm trước. Trong khi đó, ngành thương mại, du lịch duy trì đà tăng trưởng cao, đóng góp tích cực vào tăng trưởng của khu vực dịch vụ. Giá trị tăng thêm khu vực dịch vụ 9 tháng năm 2023 tăng 6,32% so với cùng kỳ năm trước. Trong khu vực dịch vụ, đóng góp của một số ngành có tỷ trọng lớn vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế như sau: Bán buôn và bán lẻ tăng 8,04% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0,8 dpt; ngành vận tải, kho bãi tăng 8,66%, đóng góp 0,53 dpt; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 6,91%, đóng góp 0,4 dpt; dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 13,17%, đóng góp 0,33 dpt.
Về cơ cấu nền kinh tế 9 tháng năm 2023, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 11,51%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 37,16%; khu vực dịch vụ chiếm 42,72%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 8,61% (Cơ cấu tương ứng của cùng kỳ năm 2022 là 11,47%; 38,49%; 41,29%; 8,75%).
Về sử dụng GDP 9 tháng năm 2023, tiêu dùng cuối cùng tăng 3,03% so với cùng kỳ năm 2022, đóng góp 34,30% vào tốc độ tăng chung của nền kinh tế; tích lũy tài sản tăng 3,22%, đóng góp 19,35%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ giảm 5,79%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ giảm 8,19%; chênh lệch xuất, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ đóng góp 46,35%.
Cũng theo GSO, tháng 9-2023, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng 1,08% so với tháng trước. Đây là mức tăng cao nhất của chỉ số giá tiêu dùng của các tháng 9 trong vòng 5 năm trở lại đây. Nguyên nhân chính khiến CPI tháng 9 tăng là do một số địa phương tăng học phí, bên cạnh đó, giá gạo, giá gas, xăng dầu và giá thuê nhà ở tăng. Những nhóm hàng tăng mạnh nhất: nhóm giáo dục +8,06% (đóng góp 0,5dpt vào CPI chung); Nhóm giao thông +1,21% (góp 0,2%), nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng (VLXD) tăng +1,12% (góp 0,21%). Nhóm giáo dục: các địa phương điều chỉnh tăng học phí 8,99% với các trường mầm non và phổ thông công lập; một số trường đại học dân lập tăng học phí đầu năm; ngoài ra, giá văn phòng phẩm, SGK đều tăng mạnh. Nhóm giao thông: tăng do các đợt điều chỉnh giá xăng trong tháng khiến giá xăng tăng 3,54%, giá dầu diesel tăng 5,96%; tuy nhiên, giá dịch vụ giao thông công cộng giảm góp phần kiềm chế mức tăng của nhóm này. Nhóm nhà ở, điện nước và VLXD: giá nhà thuê tăng 0,61% do nhu cầu tăng khi năm học mới bắt đầu; giá gas tăng mạnh 8,37%, giá dầu hỏa tăng 8,09%.
Như vậy, đến hết tháng 9, CPI bình quân tăng 3,16% - thấp hơn nhiều so với mục tiêu 4,5% của Chính phủ. Mặc dù áp lực tăng giá sẽ tiếp tục cao từ nay tới cuối năm song dự báo CPI bình quân cả năm vẫn ở dưới ngưỡng 4%. Tuy nhiên, lạm phát cơ bản (LPCB) tăng dai dẳng và cao hơn lạm phát chung vẫn cho thấy áp lực lạm phát trong năm 2024 còn khá lớn. LPCB tháng 9 tăng 0,26% so với tháng trước và tăng 3,8% so cùng kỳ. Do giá xăng dầu tăng là nhóm bị loại khi tính LPCB, vì vậy mức tăng của LPCB tháng 9 thấp hơn mức tăng CPI chung. Tuy nhiên, chuỗi tăng hàng tháng của LPCB vẫn tiếp nối liên tục từ T11/2021 là vấn đề khiến nhà điều hành đặc biệt lưu tâm.
Tóm lược thị trường trong nước từ 25/09 - 29/09
Thị trường ngoại tệ: Trong tuần từ 25/09 - 29/09, tỷ giá trung tâm được NHNN điều chỉnh tăng dần qua các phiên. Chốt ngày 29/09, tỷ giá trung tâm được niêm yết ở mức 24.089 VND/USD, tăng 29 đồng so với phiên cuối tuần trước đó. NHNN tiếp tục niêm yết tỷ giá mua giao ngay ở mức 23.400 VND/USD. Tỷ giá bán giao ngay phiên cuối tuần được niêm yết ở mức 25.243 VND/USD, thấp hơn 50 đồng so với trần tỷ giá.
Tỷ giá LNH tăng trong những phiên đầu tuần nhưng giảm trở lại trong phiên ngày thứ Sáu. Kết thúc phiên 29/09, tỷ giá LNH đóng cửa tại 24.295 VND/USD, giảm 60 đồng so với phiên cuối tuần trước đó.
Tỷ giá trên thị trường tự do ít biến động trong tuần qua. Chốt phiên 29/09, tỷ giá tự do tăng 90 đồng ở chiều mua vào và tăng 100 đồng ở chiều bán ra so với phiên cuối tuần trước đó, giao dịch tại 24.370 VND/USD và 24.450 VND/USD.
Thị trường tiền tệ LNH: Tuần từ 25/09 - 29/09, lãi suất VND LNH biến động theo xu hướng tăng nhẹ. Chốt ngày 29/09, lãi suất VND LNH giao dịch quanh mức: ON 0,24% (+0,03 đpt); 1W 0,48% (+0,08 đpt); 2W 0,66% (+0,13 đpt); 1M 1,13% (+0,03 đpt).
Lãi suất USD LNH gần như đi ngang ở tất cả các kỳ hạn. Phiên cuối tuần 29/09, lãi suất USD LNH đóng cửa ở mức: ON 5,05% (+0,01 đpt); 1W 5,15% (không đổi); 2W 5,22% (-0,02 đpt) và 1M 5,35% (-0,01 đpt).
Thị trường mở: Trên thị trường mở tuần từ 25/09 - 29/09, trên kênh cầm cố, NHNN chào thầu ở kỳ hạn 7 ngày với khối lượng là 15.000 tỷ VND, lãi suất ở mức 4,0%. Không có khối lượng trúng thầu, không có khối lượng lưu hành trên kênh cầm cố.
NHNN tiếp tục chào thầu tín phiếu NHNN với kỳ hạn 28 ngày, đấu thầu lãi suất. Có 73.779,80 tỷ đồng tín phiếu trúng thầu, lãi suất trong phiên thứ Sáu ở mức 1,0% (+0,50 đpt so cuối tuần trước đó). Như vậy, NHNN hút ròng gần 73.780 tỷ đồng từ thị trường.
Thị trường trái phiếu: Ngày 25/09, Ngân hàng Chính sách xã hội chào thầu 2.000 tỷ đồng TPCPBL ở kỳ hạn 10Y, 15Y và không có khối lượng trúng thầu ở cả hai kỳ hạn.
Ngày 27/09, KBNN chào thầu 6.500 tỷ đồng TPCP, khối lượng trúng thầu là 6.435 tỷ đồng, tương đương 99%. Trong đó, kỳ hạn 5Y huy động được 435 tỷ đồng/500 tỷ đồng chào thầu; kỳ hạn 10Y và 15Y huy động được toàn bộ 3.000 tỷ đồng chào thầu mỗi kỳ hạn. Lãi suất trúng thầu các kỳ hạn lần lượt tại 5Y 1,63% (-0,01 đpt), 10Y 2,36% (không đổi), 15Y 2,59% (không đổi).
Trong tuần này, ngày 02/10, NHCSXH chào thầu 2.000 tỷ đồng TPCPBL, trong đó, kỳ hạn 5Y chào thầu 500 tỷ đồng, 10Y chào thầu 500 tỷ đồng và 15Y chào thầu 1.000 tỷ đồng. Ngày 04/10, KBNN chào thầu 4.000 tỷ đồng TPCP, trong đó kỳ hạn 5Y chào thầu 500 tỷ đồng, 10Y chào thầu 1.500 tỷ đồng và 15Y chào thầu 2.000 tỷ đồng.
Giá trị giao dịch Outright và Repos trên thị trường thứ cấp tuần qua đạt trung bình 12.040 tỷ đồng/phiên, tăng so với mức 11.203 tỷ đồng/phiên của tuần trước đó. Lợi suất TPCP trong tuần qua tăng nhẹ ở tất cả các kỳ hạn. Chốt phiên 29/09, lợi suất TPCP giao dịch quanh 1Y 1,68% (+0,01 đpt); 2Y 1,68% (+0,01 đpt); 3Y 1,71% (+0,002 đpt); 5Y 1,78% (+0,06 đpt); 7Y 2,35% (+0,04 đpt); 10Y 2,68% (+0,08 đpt); 15Y 2,87% (+0,06 đpt); 30Y 3,10% (+0,02 đpt).
Thị trường chứng khoán: Tuần từ 25/09 - 29/09, thị trường chứng khoán tiếp tục giảm điểm so với tuần trước đó. Chốt phiên 29/09, VN-Index đứng ở mức 1.154,15 điểm, giảm mạnh 38,90 điểm (-3,26%) so với cuối tuần trước đó; HNX-Index mất 6,80 điểm (-2,80%) còn 236,35 điểm; UPCom-Index rớt 1,98 điểm (-2,18%) về mức 88,78 điểm.
Thanh khoản thị trường giảm rõ rệt với giá trị giao dịch trung bình gần 21.000 tỷ đồng/phiên từ mức khoảng 26.000 tỷ đồng/phiên của tuần trước đó. Khối ngoại tiếp tục bán ròng hơn 937 tỷ đồng trên cả 3 sàn.
Tin quốc tế
Nước Mỹ ghi nhận nhiều thông tin đáng chú ý trong tuần qua. Đầu tiên, Thượng viện Mỹ ngày 30/9 thông qua dự luật ngân sách tạm thời. Tổng thống Mỹ Joe Biden cùng ngày đã ký ban hành đạo luật này, cho phép duy trì hoạt động của chính phủ cho đến hết ngày 17/11. Tiếp theo, Văn phòng Phân tích Kinh tế Mỹ công bố GDP của nước này chính thức tăng 2,1% q/q trong quý 2, không điều chỉnh so với kết quả thống kê sơ bộ lần 2, trái với kỳ vọng được điều chỉnh lên mức 2,2% q/q. Về lạm phát, chỉ số giá tiêu dùng PCE lõi tại Mỹ tăng 0,1% m/m trong tháng 8, giảm tốc so với tháng 7 đồng thời cũng là dự báo ở mức 0,2%. So với cùng kỳ năm 2022, PCE lõi tăng 3,9% trong tháng 8, hạ nhiệt so với mức tăng 3,9% của tháng 7. Tại thị trường lao động, số đơn xin trợ cấp thất nghiệp lần đầu tuần kết thúc ngày 23/09 ở mức 204 nghìn đơn, tăng nhẹ so với 202 nghìn đơn của tuần trước đó và thấp hơn mức 214 nghìn đơn theo dự báo. Tiếp theo, chỉ số niềm tin tiêu dùng tại Mỹ do Conference Board khảo sát ở mức 103 điểm trong tháng 9, giảm khá mạnh từ mức 108,7 điểm của tháng trước, đồng thời xuống thấp hơn mức 105,5 điểm theo dự báo. Về thị trường bất động sản, doanh số bán nhà mới tại Mỹ chỉ đạt 675 nghìn căn trong tháng 8, thấp hơn mức 739 nghìn căn của tháng 7, đồng thời thấp hơn mức 699 nghìn căn theo dự báo. Bên cạnh đó, doanh số nhà chờ bán tại Mỹ giảm mạnh 7,1% m/m trong tháng 8 sau khi tăng nhẹ 0,5% tháng 7, tiêu cực hơn nhiều so với mức giảm 1,1% theo dự báo. So với cùng kỳ 2022, doanh số nhà chờ bán giảm tới 18,7% y/y. Cuối cùng, giá trị đơn đặt hàng hàng hóa lâu bền toàn phần tại Mỹ tăng 0,2% m/m trong tháng 8 sau khi giảm mạnh 5,6% ở tháng 7, tích cực hơn so với dự báo tiếp tục đà giảm 0,5%.
Khu vực Eurozone cũng đón các chỉ báo kinh tế quan trọng. Về lạm phát, chỉ số giá tiêu dùng CPI toàn phần và CPI lõi tại Eurozone lần lượt tăng 4,3% và 4,5% y/y trong tháng 9 theo báo cáo sơ bộ, cùng hạ nhiệt so với mức tăng 5,2% và 5,3% của tháng trước đó, đồng thời cũng thấp hơn so với mức 4,8% và 4,5% theo dự báo của các chuyên gia. Tại nước Đức, CPI trong tháng vừa qua tăng 0,3% m/m, khớp với dự báo. So với cùng kỳ năm 2022, CPI Đức tăng ,5%, hạ nhiệt mạnh so với mức tăng 6,1% của tháng 8 và cũng là mức tăng y/y thấp nhất mà nước này ghi nhận kể từ sau khi xung đột Nga – Ukraine diễn ra tháng 02/2022. Cuối cùng, Ifo khảo sát cho biết chỉ số niềm tin kinh doanh tại Đức ở mức 85,7 điểm trong tháng 9, giảm nhẹ so với mức 85,8 điểm của tháng 8 và vẫn trên mức 85,1 điểm theo dự báo.44,2 điểm trong tháng 9, tăng lên từ 43 điểm của tháng 8, cao hơn mức 43,3 điểm theo dự báo. PMI lĩnh vực dịch vụ ở mức 47,2 điểm trong tháng này, giảm xuống từ 49,5 điểm của tháng 8 và cũng thấp hơn so với mức 49,2 điểm theo dự báo. Cuối cùng, doanh số bán lẻ tại Anh tăng 0,4% trong tháng 8 sau khi giảm 1,1% ở tháng trước đó, gần khớp với mức tăng 0,5% theo kỳ vọng.
Tổng hợp Kinh tế - Tài chính tuần 25/09 - 29/09/2023