Tin trong nước:
Thị trường ngoại tệ: Phiên 06/01, NHNN niêm yết tỷ giá trung tâm ở mức 24.337 VND/USD, tăng 03 đồng so với phiên cuối tuần trước. Tỷ giá mua giao ngay và tỷ giá bán giao ngay được giữ nguyên niêm yết lần lượt ở mức 23.400 VND/USD và 25.450 VND/USD. Trên thị trường LNH, tỷ giá chốt phiên với mức 25.380 VND/USD, giảm 25 đồng so với phiên 03/01. Tỷ giá trên thị trường tự do không thay đổi ở cả hai chiều mua vào và bán ra, giao dịch tại 25.700 VND/USD và 25.800 VND/USD.
Thị trường tiền tệ LNH: Ngày 06/01, lãi suất chào bình quân LNH VND giảm 0,02 – 0,09 đpt ở hầu hết các kỳ hạn từ 1M trở xuống ngoại trừ tăng 0,01 đpt ở kỳ hạn 2W so với phiên cuối tuần trước; cụ thể: ON 3,91%; 1W 4,33%; 2W 4,49 và 1M 5,09%. Lãi suất chào bình quân LNH USD giảm 0,01 – 0,02 đpt ở các kỳ hạn ON và 2M trong khi đi ngang ở các kỳ hạn 1W và 1M, giao dịch tại: ON 4,41%; 1W 4,50%; 2W 4,58%, 1M 4,61%. Lợi suất TPCP trên thị trường thứ cấp biến động trái chiều, chốt phiên với mức: 3Y 2,03%; 5Y 2,30%; 7Y 2,55%; 10Y 2,98%; 15Y 3,15%.
Nghiệp vụ thị trường mở: Trên kênh cầm cố, NHNN chào thầu 5.000 tỷ đồng, kỳ hạn 7 ngày, lãi suất ở mức 4,0%. Có 5.000 tỷ đồng trúng thầu; có 25.000 tỷ đồng đáo hạn. NHNN chào thầu tín phiếu NHNN ở 2 kỳ hạn 07 ngày và 14 ngày, đấu thầu lãi suất. Có 12.450 tỷ đồng trúng thầu ở kỳ hạn 07 ngày, có 6.600 tỷ đồng trúng thầu ở kỳ hạn 14 ngày, đều với lãi suất 4,0%. Có 9.390 tỷ đồng tín phiếu đáo hạn. Như vậy, NHNN hút ròng 29.660 tỷ đồng từ thị trường qua kênh thị trường mở trong phiên hôm qua. Có 53.986,12 tỷ đồng lưu hành trên kênh cầm cố, có 63.580 tỷ đồng tín phiếu lưu hành trên thị trường.
Thị trường chứng khoán: Trên thị trường chứng khoán phiên hôm qua, lực bán áp đảo vào buổi chiều khiến các chỉ số đóng cửa trong sắc đỏ. Chốt phiên, VN-Index giảm 8,24 điểm (-0,66%) về mức 1.246,35 điểm; HNX-Index mất 2,71 điểm (-1,20%) còn 222,95 điểm; UPCoM-Index giảm 0,73 điểm (-0,76%) xuống 93,62 điểm. Thanh khoản thị trường ở mức trung bình với giá trị giao dịch đạt gần 15.600 tỷ đồng. Khối ngoại mua ròng 95 tỷ đồng trên cả ba sàn.
Theo Tổng cục Thống kê, tổng sản phẩm trong nước GDP quý IV/2024 Việt Nam ước tính tăng 7,55% so với cùng kỳ năm trước; GDP năm 2024 ước tính tăng 7,09% so với năm trước. Quy mô GDP theo giá hiện hành năm 2024 ước đạt 11.511,9 nghìn tỷ đồng, tương đương 476,3 tỷ USD. GDP bình quân đầu người năm 2024 theo giá hiện hành ước đạt 114 triệu đồng/người, tương đương 4.700 USD, tăng 377 USD so với năm 2023.
Chỉ số giá tiêu dùng CPI tháng 12/2024 tăng 0,29% so với tháng trước. So với tháng 12/2023, CPI tháng 12 tăng 2,94%. CPI bình quân quý IV/2024 tăng 2,87% so với quý IV/2023. Tính chung cả năm 2024, CPI tăng 3,63% so với năm trước, đạt mục tiêu Quốc hội đề ra.
Tin quốc tế:
Theo khảo sát của S&P Global, PMI lĩnh vực dịch vụ tại nước Mỹ ở mức 56,8 điểm trong tháng 12, điều chỉnh giảm từ mức 58,5 điểm theo kết quả sơ bộ, tuy nhiên vẫn cao hơn so với mức 56,1 điểm của tháng 11. Tiếp theo, giá trị đơn đặt hàng nhà máy tại Mỹ giảm 0,4% m/m trong tháng 12 sau khi tăng 0,5% ở tháng trước đó, gần khớp với mức giảm 0,3% theo dự báo. So với cùng kỳ năm 2023, đơn đặt hàng nhà máy trong tháng vừa qua giảm 1,9% y/y.
S&P Global cho biết PMI lĩnh vực dịch vụ tại Eurozone chính thức ở mức 51,6 điểm trong tháng 12, điều chính lên từ mức 51,4 điểm theo kết quả sơ bộ, đồng thời cao hơn mức 49,5 điểm của tháng 11.
Tại nước Đức, PMI dịch vụ chính thức đạt 51,2 điểm trong tháng vừa qua, cũng điều chỉnh tăng từ 51,0 điểm trước đó, cao hơn 49.3 điểm của tháng 11. Chỉ số giá tiêu dùng CPI toàn phần tại nước này tăng 0,4% m/m trong tháng 12 sau khi giảm 0,2% ở tháng trước đó, vượt qua mức tăng 0,3% theo dự báo. So với cùng kỳ năm 2023, CPI toàn phần Đức tăng 2,6% y/y. CPI bình quân năm 2024 tăng 2,2% so với bình quân năm 2023.
Bản tin Kinh tế - Tài chính ngày 07/01/2025